Nghề Chè Làng Khuôn
Sản phẩm chè khô của các hộ sản xuất, chế biến chè ở làng nghề chè Khuôn, xã Sơn Hùng, huyện Thanh Sơn, đều được đại lý nhà anh Nguyễn Văn Thư và một số đại lý trong làng thu mua. Chính vì đầu ra ổn định nên nguồn thu nhập của người sản xuất và chế biến chè ở khu Khuôn luôn được đảm bảo.
Chị Phùng Thị Hoan - người làm chè ở khu Khuôn cho biết: “Từ khi làng nghề có dịch vụ thì quy mô sản xuất ngày càng phát triển mạnh, sản phẩm tiêu thụ nhanh, người dân làm đến đâu bán hết đến đó”. Còn anh Thư tâm sự: Thấy lợi thế về nguồn nguyên liệu, giữa làng chè có nhiều gia đình sản xuất và chế biến, cộng với ít vốn kiến thức về chè của mình, từ năm 2000 anh bàn với gia đình mở dịch vụ thu mua chè khô.
Đến năm 2006 khi làng chè Khuôn được công nhận là làng nghề chè Khuôn thì nghề dịch vụ thu mua và chế biến chè của anh mới thực sự phát triển. Năm 2010 gia đình anh đã đầu tư trên 100 triệu đồng xây dựng hệ thống máy móc, nhà xưởng sơ chế chè khô để bán cho các tư thương đến từ Thái Nguyên và Hà Nội, hàng năm trừ chi phí gia đình anh thu lãi hơn 100 triệu đồng.
Làng nghề chè Khuôn hiện có gần 60% các hộ sản xuất và chế biến chè. Xác định cây chè là một trong những mũi nhọn phát triển KT - XH ở địa phương và nguồn lợi từ sản xuất và chế biến chè mang lại là rất lớn, với tổng thu nhập về chè hàng năm trên 3 tỷ đồng, trong những năm qua xã Sơn Hùng đã có nhiều biện pháp khuyến khích như tổ chức các lớp tập huấn, chuyển giao kiến thức KHKT về chè và hỗ trợ cơ chế chính sách vay vốn cho người dân trên địa bàn nói chung và người làm chè nói riêng để các hộ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất chè phát triển bền vững.
Đặc biệt trong năm 2013 địa phương đã dành hơn 70 triệu đồng từ nguồn vốn và phát triển nông thôn mới để hỗ trợ các hộ đầu tư và nâng cấp các thiết bị máy móc từ đó người làm nghề vươn lên làm giầu.
Ông Nguyễn Công Long - Chủ nhiệm làng nghề chè Khuôn cho biết: Trước đây đời sống nhân dân còn rất khó khăn, kinh tế dựa vào sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi đơn thuần. Từ khi làng nghề chè phát triển mạnh, đời sống của người dân trong làng được nâng lên rõ rệt. Từ ăn mặc, ở và đồ dùng, tiện nghi trong mỗi gia đình đều thay đổi.
Tuy nhiên theo những hộ dân làm dịch vụ thu mua chè khô cho biết ngoài những thuận lợi còn có những khó khăn nhất định, đặc biệt là nguồn vốn, do đó mong muốn các cấp, các ngành sớm ban hành các cơ chế, chính sách cụ thể để tạo điều kiện cho người làm chè mở rộng quy mô sản xuất và phát triển bền vững góp phần xóa nghèo, nâng cao đời sống cho người dân nơi đây.
Có thể bạn quan tâm
Cánh Đồng Vàng Bình Phước Xuân (An Giang) Giai đoạn 2009-2012, xã Bình Phước Xuân (Chợ Mới - An Giang) chuyển đổi 177 héc-ta đất lúa sang trồng rau màu và lập vườn cây ăn trái, đưa chỉ số diện tích rau màu tăng gấp đôi và giá trị sử dụng vòng quay của đất lên 4,13 lần/năm, góp phần đảm bảo thu nhập bình quân đạt trên 45 triệu đồng/người/năm.
Quy Hoạch, Nâng Cấp Cơ Sở Vùng Nuôi Tôm Ở Quảng Bình Năm 2012, sản xuất nuôi trồng thủy sản gặp nhiều khó khăn, nhất là nuôi tôm nước lợ, làm ảnh hưởng đến thu nhập và hiệu quả kinh tế của người nuôi. Tổng diện tích thả nuôi toàn tỉnh là 5.052 ha đạt 98% so KH (riêng diện tích nuôi mặn lợ 1.532 ha); sản lượng nuôi thủy sản đạt 9.510 tấn (nuôi mặn lợ sản lượng 4.300 tấn).
Thời Cơ Và Thách Thức - Nuôi Tôm Thẻ Hay Tôm Sú? Chưa năm nào người nuôi tôm lại bị đặt vào hoàn cảnh khó khăn như năm nay. Chọn nuôi con tôm thẻ hay con tôm sú? Đó là vấn đề thật sự làm nhiều người đau đầu. Nuôi tôm sú năm qua lỗ nhiều hơn lãi, còn nuôi tôm thẻ chân trắng thì quá liều lĩnh, vì đây là đối tượng nuôi mới và mô hình này đòi hỏi vốn đầu tư rất nhiều.
Hướng Dẫn Biện Pháp Diệt Chuột Hiệu Quả Ngày 12.6, Hội ND huyện Hòa Vang tổ chức tập huấn cách bẫy, bắt chuột hiệu quả trên đồng ruộng với loại bẫy cải tiến cho 150 cán bộ cơ sở hội.
Mô Hình Tổ Hợp Tác Trong Chăn Nuôi Vịt Thịt Năng Suất Cao Theo Hướng An Toàn Sinh Học Anh Phan Thanh Bình Ấp Mỹ Á, xã Núi Voi, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang thành lập trang trại chăn nuôi vịt từ năm 2003 trên diện tích khu đất 20.000 m2. Trong đó: có 2 ao thả vịt, với diện tích mặt nước ao là 12.000 m2, còn lại là diện tích chuồng trại, sân chơi cho vịt và bờ rào.