Ngành chăn nuôi gặp khó do giá TĂCN cao

Tại Diễn đàn chính sách nông nghiệp “Tăng cường tính cạnh tranh trong thị trường lúa gạo và chăn nuôi Việt Nam” do Trung tâm Chính sách và Chiến lược nông nghiệp, nông thôn miền Nam tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh ngày 8-9, ông Nguyễn Thanh Sơn, Viện trưởng Viện Chăn nuôi, cho biết, ngành chăn nuôi đang tồn tại 4 nút thắt cần tháo gỡ.
Đó là năng suất chất lượng giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi (TĂCN), hệ thống tổ chức sản xuất và công tác quản lý.
Giá TĂCN cao dẫn đến ngành chăn nuôi trong nước có sức cạnh tranh chưa cao.
Hiệp hội TĂCN Việt Nam cũng cho rằng, nếu nhà nước áp dụng giảm thuế cho tất cả các loại nguyên liệu bổ sung dùng để chế biến TĂCN, giá sản phẩm đầu ra có thể giảm được từ 7 - 8%. Tuy nhiên, theo một số chuyên gia trong ngành, việc giảm giá thời gian gần đây chủ yếu do giá nguyên liệu nhập khẩu đầu vào giảm, doanh nghiệp nhân cơ hội này giảm giá theo.
Vì thế, cần thiết có những công cụ kiểm soát chặt chẽ hơn về giá thành sản xuất TĂCN để đảm bảo lợi ích được phân phối cho đúng đối tượng mà chính sách hướng đến.
Theo TS. Nguyễn Văn Giáp, Giám đốc Trung tâm Chính sách và Chiến lược nông nghiệp, nông thôn miền Nam, hiện nay, các doanh nghiệp TĂCN trong nước công bố tỷ lệ lợi nhuận trên giá thành sản xuất 1 kg TĂCN vào khoảng 1 - 3%. Nhưng nhận định của một số chuyên gia thì tỷ lệ này phải lên đến 10 – 15%. Tuy nhiên, thông tin này hiện chưa được bất kỳ một cơ quan quản lý, viện nghiên cứu nào kiểm chứng, do khó có thể tiếp cận thông tin chi phí giá thành của doanh nghiệp.
TS Giáp cho biết, theo ý kiến một số doanh nghiệp TĂCN, khi bỏ thuế VAT, các doanh nghiệp chỉ có thể giảm giá TĂCN từ 2,5 – 3,5% do một số nguyên liệu như bột cá, vitamin các loại… không được miễn giảm VAT. Đồng thời, doanh nghiệp vẫn phải chịu các khoản VAT từ chi phí vận chuyển tăng, giá điện, giá nước, chi phí máy móc thiết bị… nên giá TĂCN không thể giảm đến mức 5% được.
Thực tế việc giảm thuế VAT mang lại lợi ích nhiều hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh, nhất là doanh nghiệp nước ngoài khi lợi nhuận không ảnh hưởng mà thậm chí tăng lên, trong khi nguồn thu của ngân sách nhà nước lại giảm. Do đó, việc quy định lợi nhuận cho các mặt hàng này nên được quy định.
Như Thái Lan quy định lợi nhuận đối với mặt hàng này chỉ khoảng 5%, không được cao hơn. Theo đó, ông đề xuất giải pháp thực hiện yêu cầu kê khai giá bán và giới hạn mức lợi nhuận, giám sát ảnh hưởng của việc miễn VAT đến giá thành.
Ông Đoàn Xuân Trúc, Phó chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Việt Nam, nhấn mạnh, trong bối cảnh hội nhập, ngành chăn nuôi phải đổi mới toàn diện, trong đó có TĂCN (chiếm đến 60-70% giá thành sản phẩm chăn nuôi). Nếu không hạ thấp giá thành thì ngành chăn nuôi khó cạnh tranh.
Ông Trúc cho rằng, bên cạnh tăng cường kiểm soát chất lượng TĂCN vẫn phải quản lý giá. Ở nước ta do thời gian khấu hao thiết bị ngắn (5 năm), chi phí cho khuyến mãi, chiết khấu… nên giá sản phẩm khi đến tay người chăn nuôi đã “đội” lên cao. Theo ông, các doanh nghiệp, trang trại lớn nên tự sản xuất TĂCN để giảm giá thành. Đồng thời cần có cơ chế tín dụng phù hợp với ngành chăn nuôi.
Ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội TĂCN cũng kiến nghị một số giải pháp để tăng tính cạnh tranh cho ngành chăn nuôi. Như cần tạo mô hình sản xuất chăn nuôi theo chuỗi sản phẩm, khép kín. Tìm ra cơ chế hợp tác sản xuất, phân chia lợi nhuận giữa các khâu trong sản xuất hợp lý. Đối với khu chăn nuôi tập trung, nhà nước hỗ trợ đường điện, nước cấp, nước thoát đến tận chân công trình
Đối với khu xây dựng chuồng trại chăn nuôi được cấp ngay sổ đỏ; cho tư nhân vay vốn dài hạn, trung hạn để xây dựng chuồng trại, mua con giống, chăn nuôi với lãi suất nhẹ và cho ân hạn 3-4 năm. Đồng thời, nâng cao hàng rào kỹ thuật bảo vệ sản xuất trong nước. Tất cả tiêu chuẩn kỹ thuật này công khai, có sự tham gia xây dựng và kiểm soát của các hội, hiệp hội chuyên ngành.
Được biết, hiện nay giá TĂCN của Việt Nam vẫn cao hơn Thái Lan. Do Thái Lan có vùng sản xuất nguyên liệu TĂCN nội địa lớn, nguyên liệu sản xuất TĂCN được nhập khẩu trực tiếp trừ Ấn Độ nên tiết kiệm được chi phí vận chuyển.
So với các nước xuất khẩu nguyên liệu TĂCN như Mỹ, Argentina…, giá thành TĂCN của Việt Nam cao hơn do chi phí vận chuyển cao; thêm vào đó, một số chi phí vô hình khác như khấu hao thiết bị, khuyến mãi, chiết khấu… (chiếm 6-10% giá thành). Vì thế, giá sản phẩm đến người chăn nuôi đội lên dẫn đến các sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam khó cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục hội nhập sâu vào nền kinh tế cộng đồng ASEAN.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, chăn nuôi đang được coi là ngành kinh tế bị tổn thương nhiều nhất khi nước ta tham gia một loạt Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương, đa phương, nhất là khi cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) ra đời và TPP phủ sóng trên toàn Việt Nam. Điều này đem đến nhiều cơ hội những cũng không ít khó khăn, thách thức cho ngành nông nghiệp nói chung và chăn nuôi nói riêng.
Có thể bạn quan tâm

Ông Hoàng Đức Doanh, Chi cục trưởng Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Quảng Trị cho biết, bình quân mỗi năm diện tích rừng trồng mới trên địa bàn tỉnh đạt 5.000 ha. Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác bảo vệ và trồng mới rừng, tỉnh Quảng Trị đã chú trọng phát triển lâm nghiệp bền vững.

Theo báo cáo của Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện, ở Gio Linh (Quảng Trị) hiện có gần 100 trang trại, gia trại ở vùng gò đồi gồm các xã như Gio An, Gio Hoà, Hải Thái, Linh Hải…Đây là những trang trại cao su, lâm nghiệp kết hợp chăn nuôi có thu nhập trên 200 triệu đồng/năm. Điều quan trọng là đã hình thành nên những vùng sản xuất hàng hoá mang tính tập trung nhằm khai thác hết tiềm năng lợi thế vùng gò đồi.

Vùng gò đồi, miền núi phía Tây của huyện Gio Linh (Quảng Trị) có tổng diện tích tự nhiên 34.336 ha, chiếm 78% diện tích của toàn huyện. Với lợi thế đất đai, phần lớn là đồi núi, có đất đỏ ba dan, Feralit, thuận lợi cho việc phát triển vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày và những mô hình kinh tế vườn rừng, vườn đồi, trang trại mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Xã đã tiến hành khảo sát, thống kê về diện tích đất đai, điều kiện tự nhiên và những khó khăn, thuận lợi, từ đó xây dựng kế hoạch phát triển KT-XH phù hợp với thực tiễn địa phương, đưa ra các chương trình hành động cụ thể để khai thác các tiềm năng, thế mạnh sẵn có ở vùng gò đồi.

Theo đó, xuất khẩu cả nước ước đạt 6,2 tỉ USD, nhập khẩu ước đạt 6,63 tỉ USD. Trong đó, hai nhóm hàng dệt may và điện thoại, linh kiện điện thoại vẫn là nhóm hàng chiếm kim ngạch xuất khẩu lớn nhất đạt lần lượt 981 triệu USD và 880 triệu USD. Về nhập khẩu, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác tiếp tục là nhóm dẫn đầu kim ngạch nhập khẩu với tổng hơn 1 tỉ USD.