Mô Hình Nuôi Sò Huyết Rừng Phòng Hộ

Rừng phòng hộ ven biển huyện An Minh có vai trò rất quan trọng trong việc chắn sóng, gió, bảo vệ tuyến đê bao trên biển, bảo vệ khu vực sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản bên trong. Với diện tích rừng phòng hộ 3.028ha; hiện đã giao khoán 2.166 ha cho 728 hộ dân trong vùng chăm sóc bảo vệ và được phép sử dụng 30% diện tích rừng giao khoán để sản xuất tạo thu nhập. Sò huyết là đối tượng nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều hộ dân trong vùng và hiện mô hình này đang được nhân rộng.
Trong năm 2010; tại huyện An Minh đã có nhiều chương trình được triển khai như chương trình tạo thu nhập thay thế thuộc dự án GTZ Kiên Giang; chương trình nuôi sò huyết trong ao của Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư (KNKN) nhằm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, kinh nghiệm nuôi, hỗ trợ vốn sản xuất… giúp hộ nuôi hạn chế rủi ro, khó khăn trong qúa trình nuôi
Ghé tham quan điểm nuôi sò của anh Nguyễn Hoàng Lương, ấp Xẻo Lá A, xã Tân Thạnh, huyện An Minh. Sau khi kiểm tra trọng lượng sò, môi trường nước ao nuôi, kỹ sư Danh Nhiệt – Cán bộ kỹ thuật của Trung tâm KNKN – người trực tiếp triển khai chương trình nhận xét: sò huyết phát triển tốt, tăng trọng nhanh nhờ môi trường ao nuôi tốt, thức ăn đấy đủ…
Tìm hiểu thêm thông tin từ hộ nuôi, được biết: Toàn bộ ao nuôi của gia đình là 5,4 ha, trong đó có 1 ha được Trung tâm KNKN hỗ trợ 40% tiền con giống, một số chế phẩm sinh học để cải tạo môi trường nước và tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho sò. Sau khi cải tạo ao, lựa con nước tốt lấy nước vào ao; anh Lương mua sò cám về ương trong vèo, sau đó thả xuống ao nuôi.
Sò huyết là đối tượng dễ nuôi, có giá bán ổn định,…là loài ăn lọc nên trong quá trình nuôi không tốn tiền mua thức ăn. Vì thế phù hợp với những hộ nuôi ít vốn đấu tư nhưng có công lao động và đặc biệt là điều kiện môi trường dưới tán rừng phòng hộ phù hợp cho sò huyết phát triển. Nếu toàn bộ 30% diện tích rừng phòng hộ được tận dụng nuôi sò huyết hiệu quả thì đời sống của người dân trong vùng từng bước được nâng lên.Tuy nhiên, không phải ao nuôi nào cũng tốt, cũng đạt; cách đó không xa, một hộ nuôi khác thả giống sau anh một tuần, cỡ giống 3.200 con/kg nhưng đến nay sò mới đạt 1.000 con/kg. Kỹ sư Danh Nhiệt giải thích nguyên nhân trên: Hộ nuôi chưa nắm vững kỹ thuật; chưa xử lý và cải tạo ao tốt nên nền đáy rất dơ; chưa quản lý tốt môi trường nước, ao nuôi thiếu thức ăn tự nhiên nên sò phát triển chậm. Hơn nữa, chất lượng giống cũng là yếu tố quan trọng quyết định tỷ lệ sống và sự phát triển của sò.
Vì thế, để phát triển mô hình nuôi sò huyết dưới tán rừng đạt hiệu quả và ổn định; người nuôi cần trang bị tốt về “Kỹ thuật nuôi sò huyết” với đầy đủ các nội dung như: cải tạo ao nuôi, thiết kế ao nuôi, kỹ năng kiểm tra các yếu tố môi trường, lựa chọn con giống, phòng trị một số địch hại và cách chăm sóc quản lý tốt ao nuôi.
Hỏi về những khó khăn, anh Lương tâm sự: “Khó khăn nhất là nguồn sò và chất lượng sò giống, hai là thị trường tiêu thụ; thuê mướn lao động và đặc biệt là tệ nạn “sò tặc” hiện nay địa phương chưa có biện pháp ngăn chặn. Cứ chạng vạng là phải ra chòi canh rồi, nếu không thì đến khi thu hoạch không còn gì để bán ”
Anh đề xuất thêm: các cấp chính quyền cần kiểm soát tốt chất lượng con giống, nên chăng cấp giấy kiểm dịch cho sò huyết để người dân nuôi sò không mua phải sò “dỏm”, hạn chế được rủi ro khi mua giống kém chất lượng. Bên cạnh đó cần nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo để giảm bớt áp lực, khó khăn về con giống. Đặc biệt là tìm thị trường ổn định để người dân an tâm sản xuất, kinh tế ổn định, đời sống được cải thiện … thì khi ấy màu xanh của rừng phòng hộ được người dân chăm sóc, bảo vệ tốt hơn.
Có thể bạn quan tâm

Ông Phạm Văn Châu, Phó chủ tịch UBND xã Tam Giang (H.Núi Thành, Quảng Nam), cho biết những ngày gần đây nhiều tàu câu mực khơi tại địa phương sau khi cập bến đã xuất đi hàng trăm tấn mực khô với giá khá cao.

Gạo phẩm cấp trung bình từ 15 - 20% tấm vẫn đang là chủng loại gạo xuất khẩu chủ lực của Việt Nam khi đạt trên 306 ngàn tấn trong tháng 6 (chiếm 45,72%), tiếp đó là gạo chất lượng cao 3-10% tấm (trên 151 ngàn tấn; 22,52%), gạo thơm gần 102 ngàn tấn (15,2%)…

Năm 2011, gia đình ông Nguyễn Trung Thành ở thôn 6, xã Đắk Wer (Đắk R’lấp) đã đầu tư vốn nuôi bò. Những năm đầu, nuôi bò sinh sản; nhưng sau khi đi tìm hiểu về cách chăn nuôi bò ở các hộ làm ăn hiệu quả, ông đã mạnh dạn chuyển sang hướng vỗ béo bò thịt.

Trong đó, có 9 cơ sở nuôi cá tra thương phẩm (69,15ha) được chứng nhận GlobalGAP/ASC, 2 cơ sở sản xuất giống cá tra được chứng nhận GlobalGAP (diện tích 6,3ha), 3 cơ sở nuôi cá tra thương phẩm (8,4ha) được chứng nhận VietGAP và 1 cơ sở nuôi cá tra thương phẩm (3ha) được chứng nhận BMP.

Vụ đông xuân 2013 - 2014, huyện Mường Ảng gieo cấy 906,2ha lúa chiêm xuân, trong đó, 271,86ha xuân sớm và 634,34ha xuân muộn. Cơ cấu giống gồm: lúa lai 181,24ha chiếm 20% diện tích, chủ yếu giống Nhị ưu 838, tạp giao; lúa thuần diện tích 724,96ha, chiếm 80% diện tích, chủ yếu giống IR64 (400ha); nếp IR352, nếp 97, bắc thơm, tẻ thơm (324,96ha).