Mô Hình Nuôi Cá Lồng Mới Trên Sông Kinh Thầy

Nam Tân là một trong những xã nuôi trồng thuỷ sản mạnh nhất trong huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Hiện nay xã có từ 120-130 ha mặt nước tự nhiên, sản lượng thuỷ sản của xã chiếm trên 1/4 tổng sản lượng của toàn huyện (từ 27-28%), hàng năm thu được khoảng 500-550 tấn cá (sản lượngtoàn huyện Nam Sách khoảng hơn 2.000 tấn/năm).
Phong trào nuôi cá tại xã Nam Tân đã có từ những năm 1990; thu nhập từ cá mang lại hiệu quả cho người nông dân. Tuy nhiên, trong những năm gân đây do môi trường ô nhiễm, thức ăn khan hiếm, cỏ đồng bị nhiễm độc từ thuốc trừ sâu, trừ cỏ... nên cá phát triển chậm, đó là chưa nói rủi ro về mùa đông, cá chết hàng loạt do lạnh và nhiễm bệnh.
Nhờ lợi thế có con sông Kinh Thầy chảy qua, hàng năm cung cấp nước tưới cho cây trồng, người dân xã Nam Tân đã tận dụng lượng nước sạch tự nhiên để nuôi cá lồng. Năm 2009, anh Trần Văn Thiện, thôn Trung Hà, xã Nam Tân đã đầu tư nuôi cá lồng trên sông Kinh Thầy, nguyên vật liệu nuôi cá lồng chủ yếu là lưới tổng hợp, khung sắt và các thùng phuy nhựa nổi lên, lồng nuôi cá bằng lưới thép inox, ống thép...
Anh cho chúng tôi biết do trước đó có nhiều hộ gia đình nuôi cá lồng trên sông bị thất bại vì vậy khi anh thực hiện thì có nhiều người không tin vào hiệu quả nuôi cá lồng của gia đình anh. Để nuôi cá lồng đạt hiệu quả anh Thiện đã vào trong các tỉnh phía Nam để học hỏi kinh nghiệm nuôi cá lồng sau đó về thực hiện tại gia đình. Lúc đầu, gia đình anh mới nuôi thử nghiệm, đầu tư vốn ít với 1 lồng bè.
Sau 1 năm thực hiện thấy hiệu quả anh đầu tư tiếp 15 lồng bè. Năm 2010, nuôi cá lồng cho thu nhập khoảng 5 tấn/1lồng/1 lứa, mỗi một năm được 2 lứa, cá đều đạt từ 700-800 gram trở lên. Khi đến vụ thu hoạch có rất nhiều lái thương từ các nơi như: Hà Nội, Hưng Yên, TPHải Dương... đến mua. Anh cho biết ngoài giống cá cho giá trị kinh tế cao như cá chiên, cá điêu hồng gia đình anh vẫn nuôi kết hợp với cá trắm giòn, cá chép, cá trôi, các giống cá này khỏe mạnh thích nghi với điều kiện sống trong vùng lòng hồ và có giá trị kinh tế cao, thức ăn cho cá là các loại cám tốt mua từ các nhà máy có uy tín.
Các loại cá thương phẩm bán với giá thị trường từ 60.000 đến 300.000/1kg, năm 2010 trừ các chi phí về đầu tư lồng cá, giống cá, thức ăn, thuốc thì gia đình anh thu lãi từ 400 đến 500 triệu đồng. Từ những kinh nghiệm của gia đình làm nghề nuôi cá lâu năm cùng với những kiến thức học hỏi thực tế vá sách báo.
Anh Thiện thực hiện đúng quy trình nuôi cá lồng, làm lồng cá, chọn giống cá, chăm sóc cá đúng quy trình kỹ thuật nên cá cho hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, gia đình anh Thiện thuê 3 nhân công lao động thu nhập hàng tháng từ 2,5 đến 3 triệu đồng khi đến vụ thu hoạch anh phải thuê khoảng 20 lao động thời vụ trả 150.000 đồng/1 ngày công.
Theo Anh Thiện cho hay lãi từ mô hình rất cao nếu hộ nuôi biết kỹ thuật (từ khâu chọn giống, thời điểm và môi trường nuôi phù hợp đặc biệt là lúc thả cá phải sát trùng qua nước và để cá thích nghi với môi trường mới) nuôi thâm canh, phòng trị bệnh kịp thời thì sẽ cho hiệu quả kinh tế cao.
Sau hai năm thực hiện mô hình nuôi cá lồng tại gia đình anh Thiện đã cho hiệu quả kinh tế cao, thời gian tới gia đình anh đầu tư thêm 20 chiếc lồng bởi tận dụng lợi thế sông Kinh Thày có mặt nước rộng, nguồn nước sạch là có tiềm năng cho phát triển kinh tế bằng nuôi cá lồng. Nuôi cá lồng trên sông không mất thời gian dọn ao, không bị ô nhiễm môi trường, cá ít bị bệnh, công chăm sóc giảm.
Ông Nguyễn Trung Tựu vốn là Chủ tịch xã Nam Tân, sau khi nghỉ hưu ông cũng mạnh dạn đầu tư nuôi cá lồng trên sông Kinh Thầy, ông cho biết vốn bỏ ra rất lớn, hiện tại mô hình nuôi cá lồng có 7 chiếc, gia đình ông đầu tư mất gần 1 tỷ đồng, các giống cá nuôi chủ yếu cá điêu hồng, cá trắm giòn, cá chép giòn...các giống cá này cho giá trị kinh tế cao, thời gian sinh trưởng nhanh, thị trường ưa chuộng,
Tuỳ từng giống cá nuôi với số lượng khác nhau trong lồng như cá điêu hồng nuôi 15.000 con/lồng, cá trắm và cá chép nuôi khoảng 2.000 con/lồng nhưng mỗi lồng ít nhất từ 1,000 con trở lên, lồng nuôi cá kích cỡ 162m3, mỗi chiếc lồng cho giá trị sản lượng bằng 2ha mặt nước. Khoảng tháng 5 và tháng 6 cá nuôi sẽ cho thu hoạch. Nuôi cá lồng trên sông cho giá trị kinh tế cao bởi đây là thực phẩm nông sản sạch, có giá trị kinh tế cao.
Mô hình nuôi cá lồng tại xã Nam Tân là mô hình mới cần nhân rộng cho bà con những nơi có mặt nước ao hồ rộng lớn học tập, tham khảo và làm theo. Đây là mô hình mẫu mở ra hướng phát triển kinh tế mới để người dân nuôi trồng thuỷ sản của vùng sông Kinh Thầy, giúp người nông dân vươn lên làm giàu trên chính quê hương mình Và để phát triển bền vững thì song song việc nuôi cá lồng thì người dân phải chú ý đến việc bảo vệ môi trường tự nhiên
Có thể bạn quan tâm

Đến thời điểm này, nông dân tỉnh Hậu Giang đã thả nuôi thủy sản trên ruộng lúa được hơn 1.303ha, đạt gần 35% kế hoạch. Trong đó, cá - ruộng 1.299ha, tôm càng xanh - ruộng 4,4ha, tập trung ở các huyện: Phụng Hiệp, Long Mỹ, Châu Thành A, Vị Thủy và thành phố Vị Thanh.

Sáu tháng đầu năm 2015, diện tích nuôi cá tra của ĐBSCL ước đạt 5.795 ha, giảm 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Theo đánh giá của Bộ NN và PTNT, quý I và II, ngành nuôi cá tra gặp nhiều khó khăn do XK giảm, nắng nóng kéo dài gây dịch bệnh lên cá, đồng thời giá cá không ổn định khiến người nuôi cân nhắc kỹ hơn trước mỗi vụ nuôi. Do đó diện tích nuôi cá tra của một số địa phương có xu hướng giảm như: Hậu Giang (giảm 24,2%), Tiền Giang (giảm 26%), Bến Tre (giảm 23,9%).

Đó là câu chuyện thoát nghèo, làm giàu của anh Huỳnh Văn Tám ở ấp Tân An, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre. Anh Tám là một trong những gương nông dân sản xuất giỏi, sáng tạo được khen thưởng cấp tỉnh năm 2014. Từ một hộ nông dân diện nghèo, sau nhiều năm cần mẫn lao động, áp dụng kỹ thuật canh tác, nay anh đã có cơ ngơi ổn định và cuộc sống khá sung túc.
Lợi dụng việc nhiều nhà vườn đang săn tìm nhãn tím giống về trồng, nhiều thương lái mua cành chiết rồi bán lại với giá trên trời.

Đây là loài ăn trái thuộc cây bản địa, thường xuất hiện ở núi Cấm, Cô Tô, núi Dài lớn… dưới dạng trồng xen với tán rừng, không có vườn chuyên canh. Tuy vậy, cây bơ vẫn được xem là đặc sản vùng Bảy Núi, do hương vị thơm ngon và chất lượng trái có thể sánh với bơ miền Đông và Tây Nguyên.