Loay Hoay Phát Triển Rau An Toàn

ĐỊA PHƯƠNG KÊU DOANH NGHIỆP
Ông Phan Huy Thông - Giám đốc TTKNKNQG cho biết, trong những năm qua, Bộ NN-PTNT đã ban hành một loạt quyết định, chỉ thị nhằm tạo điều kiện thúc đẩy phát triển mô hình RAT, bước đầu hình thành nên vùng SX tập trung tại Hà Nội, Thái Nguyên, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh…; bản thân người tiêu dùng (NTD) cũng đón nhận RAT tích cực hơn. Đến nay, trên địa bàn cả nước đã có 199 mô hình với diện tích trên 2.600 ha rau đã được chứng nhận VietGAP, trong đó có 74 mô hình rau VietGAP, diện tích 260 ha; 67 mô hình rau đã và đang định hướng SX theo VietGAP, tổng diện tích trên 900 ha.
Tuy nhiên, khi diện tích RAT mở rộng lập tức nảy sinh bất cập trong khâu phân phối tiêu thụ. Cụ thể, người SX RAT hoặc theo quy trình VietGAP đều phải tuân thủ khắt khe các quy định đối với sản phẩm nên giá thành cao, khó cạnh tranh với rau bình thường. Ngược lại, một bộ phận NTD chấp nhận mua RAT với giá cao nhưng không có cơ sở, tiêu chí uy tín nào đảm bảo rau họ mua là RAT. Chính vì sự mập mờ giữa RAT và rau thường khá mong manh nên người nội trợ tiếp tục quay lưng khiến việc mở rộng quy mô RAT dậm chân tại chỗ.
“Nhưng khổ một nỗi người nông dân không thể đem rau mình trồng ra chợ bán và nói đây là RAT và NTD cũng không thể đến tận ruộng để xem có phải RAT hay không, đây chính là kẽ hở, điểm yếu trong SX RAT của chúng ta”. Ông Thông nhấn mạnh. Được biết, Cục Trồng trọt đã chỉ định cho 17 đơn vị được chứng nhận VietGAP trên địa bàn cả nước và 10 đơn vị được chứng nhận trên địa bàn các tỉnh, thành phố. Nhưng có một đại biểu không ngần ngại nói thẳng, việc thẩm định và cấp giấy chứng nhận VietGAP cho rau hiện nay vẫn mang tính đại khái qua loa, bên cạnh đó một số đơn vị năng lực yếu kém nên làm mất lòng tin NTD.
Là đầu tàu trong phát triển mô hình RAT, năm 2010 thành phố Hà Nội phê duyệt đề án phát triển RAT đến năm 2015 với kinh phí hàng nghìn tỷ đồng. Dù lắm tiền nhiều của nhưng do cơ chế chính sách hỗ trợ chưa thỏa đáng, chưa phù hợp nên tiến độ xây dựng vùng RAT không được như mong muốn. Hiện Hà Nội có 13.000 ha rau, nhưng mới chỉ có trên 3.000 ha RAT và 115 ha rau VietGAP đáp ứng 60% nhu cầu, còn lại 40% do các tỉnh lân cận cung cấp. Song sự liên kết giữa Hà Nội và các tỉnh láng giềng còn rất lỏng lẻo, chủ yếu mang tính tự phát.
Theo ông Đào Duy Tâm - PGĐ Sở NN-PTNT Hà Nội, nguyên nhân khiến việc phát triển RAT ì ạch do DN chưa tham gia vào khâu phát triển vùng SX, sơ chế, chế biến mà chủ yếu góp mặt ở khâu trung gian. Bản thân các siêu thị, cửa hàng cũng không mặn mà tham gia bán RAT vì lợi nhuận thấp. Một số DN tại Hà Nội mua RAT của người SX nhưng "nắm đằng chuôi”, đến chiều bán không hết đem trả lại khiến bà con lỗ triền miên. Theo đó, ông Tâm xác định phát triển RAT là của cả xã hội chứ không phải chỉ riêng người nông dân, vì vậy cần có văn bản pháp lý để huy động các cấp ngành cùng tham gia phát triển RAT.
DOANH NGHIỆP LẠI KÊU KHÓ
Giải thích vai trò mờ nhạt của DN trong chuỗi SX RAT, ông Trương Minh Thanh - Phó TGĐ TCT Thương mại Hà Nội (Hapro Mart), một đơn vị tiêu thụ RAT tại Hà Nội cho hay, năm 2011 Hapro Mart khai trương trên 30 cửa hàng thực phẩm RAT và phấn đấu năm 2015 mở 350 cửa hàng phục vụ khu vực nội thành Hà Nội. Nhưng ông Thanh than khó vì giá thuê mặt bằng ở Hà Nội rất đắt đỏ, nếu chỉ bán RAT không phía DN sẽ “chết yểu” nên đề nghị nhà nước có chính sách hỗ trợ chi phí thuê cửa hàng.
Mặt khác, giá bán RAT cao hơn rau ở các chợ truyền thống khá nhiều nên vô hình chung tạo ra lợi thế cạnh tranh không cân bằng, cộng thêm việc Hapro Mart khi tiếp cận nguồn RAT phải mất thêm công đoạn đánh giá thẩm định nên giá lại đội thêm lần nữa. Theo ông Thanh, một điều quan trọng không kém là quy mô SX RAT hiện chưa đủ lớn để cung cấp cho hệ thống siêu thị (mỗi ngày Hapro Mart cần 10-20 tấn rau củ quả song phải huy động cả chục đơn vị cung cấp mới đủ).
“Bản thân NTD nay họ ăn rau muống, mai đổi rau ngót, ngày kia rau cải nên cửa hàng RAT chỉ bán rau muống cũng không ổn. Phải có bộ sản phẩm RAT đa dạng, phong phú tạo điều kiện cho NTD tìm đến thường xuyên. Nói thật bà con cũng phải thông cảm, hiện chúng tôi đang phải bù lỗ cho RAT, mỗi ngày Hapro Mart tồn đọng 10-15% lượng rau, sau đó lại phải hạ giá, thậm chí yêu cầu người của công ty mua trừ vào lương nên không dám nhập nhiều”, ông Thanh tâm sự.
Chưa hết, ông Thanh còn cho biết Hapro Mart đang gặp thất thoát không nhỏ do các cơ sở SX RAT chưa có trang thiết bị đồng bộ như khâu sơ chế, kho bảo quản nên khi mua rau về Hapro Mart bị hao hụt tới 25%. Hiến kế cho mô hình RAT, Phó TGĐ Hapro Mart đề nghị các DN, nhà SX phải được tiếp cận các chính sách ưu đãi về mặt bằng, thuế khóa. Các địa phương phải tổ chức làm điểm hoàn thiện một chuỗi SX RAT ở quy mô lớn liên kết từ người SX đến NTD nhằm giảm tối đa chi phí khâu trung gian. Tổ chức kết nối nhóm hộ SX với các nhà hàng, khách sạn, siêu thị cao cấp.
PGS.TS Mai Quang Vinh - Viện KHNN Việt Nam chia sẻ:
“Hiện chúng ta có cả rừng văn bản nhưng lý thuyết và thực tế khác xa một trời một vực. Điều nên làm hiện nay là phải lấy lại lòng tin NTD bằng cách xử phạt nghiêm khắc đơn vị sai phạm. Chính mắt tôi từng chứng kiến có DN đầu ngành ở Hà Nội thuê xe ôm chở rau không rõ nguồn gốc đến rồi vô tư dán nhãn mác RAT thì bao giờ mới chuyên nghiệp được”.
Sau đó, phải có bàn tay của nhà nước buộc các đơn vị này tiêu thụ sản phẩm RAT để tạo thành chuỗi giá trị điểm rồi nhân rộng. Cuối cùng, ông Thanh cho rằng, bài toán để các DN thuê đất trồng RAT rồi tự chế biến tiêu thụ chỉ khắc phục tạm thời phần nào, không giải quyết được gốc rễ vấn đề.
Trước những vấn đề rối như canh hẹ, PGĐ Sở NN-PTNT Hà Nội Đào Duy Tâm khẳng định, để tạo bước đột phá trong việc phát triển RAT, Hà Nội đang tiến hành xây dựng đề án chiến lược.
Theo đó, dành một phần diện tích lớn tại các chợ đầu mối đưa RAT đến người tiêu dùng. UBND thành phố yêu cầu tất cả các quận, huyện phải bố trí địa điểm cho việc tiêu thụ RAT và các địa điểm đó đều được hưởng cơ chế hỗ trợ về mặt bằng. Sở cũng đề nghị Hapro Mart phải bố trí 100 gian hàng tại siêu thị để bán RAT và họ cũng được hưởng cơ chế chính sách ưu đãi. Tình huống xấu nhất, nếu đơn vị nào không chấp hành sẽ dùng đến biện pháp cưỡng chế.
Có thể bạn quan tâm

Đến nay, việc tăng nhanh về diện tích và sản lượng loại cây trồng này đồng thời đặt ra bài toán về “đầu ra” của sản phẩm. Huyện Lập Thạch xác định, để mở rộng thị trường thì điều quan trọng nhất và cần làm ngay lúc này chính là phát triển thương hiệu cho sản phẩm.

Đến thời điểm này, nông dân ở huyện vùng cao Võ Nhai đã gieo trồng được 391ha cây màu vụ đông, bằng gần 102% kế hoạch. So với những năm trước, diện tích cây vụ đông năm nay của huyện tăng không đáng kể, nhưng lại hứa hẹn mùa vụ mang lại giá trị kinh tế cao cho nông dân.

Tại một số chợ ở TP HCM, giá thanh long trước kia rớt giá thê thảm, chỉ còn 3.000-4.000 đồng/kg thì nay đã lên 10.000-17.000 đồng/kg (tùy loại), tức tăng giá đến hơn 4-5 lần. Măng cụt ĐBSCL và Lái Thiêu (Bình Dương) lần đầu tiên măng cụt đạt mức 30.000-45.000 đồng/kg, cao nhất trong năm thay vì chỉ có 20.000 – 25.000 đồng/kg so với tháng trước.

Đó là anh Phan Cẩn, ở thôn Ngọc Sơn Bắc, xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn. Bằng sự cần cù lao động, ham học hỏi, biết áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất, chăn nuôi, hàng năm anh có thu nhập từ nuôi bò, heo và trồng trọt trên 150 triệu đồng.

Hiện nay, tranh thủ nước lũ trong nội đồng đang rút nhanh, nông dân trong tỉnh đang khẩn trương tổ chức xuống giống gần 75.000 ha lúa đông xuân. Tỉnh khuyến khích nông dân áp dụng đồng bộ các giải pháp thâm canh, để phấn đấu đạt năng suất bình quân 70,54 tạ/ha và sản lượng cả vụ trên 525.000 tấn lúa.