Lỗ Hổng Thanh Tra Xử Lý Phân Bón

Ngày 27/11/2014, Thông tư 29/2014/TT-BCT của Bộ Công thương hướng dẫn thi hành Nghị định 202/2013/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý phân bón sẽ chính thức có hiệu lực.
Tuy nhiên, nhiều nhà quản lý và DN cho rằng, vấn nạn phân bón giả, phân bón kém chất lượng sẽ khó giải quyết triệt để nếu không có sự thay đổi ở khâu thanh tra, xử lý.
PHÂN TÍCH YẾU KÉM
Nghị định 202 ra đời, thay vì quản lý theo danh mục phân bón sẽ được quản lý bằng luật chất lượng và hợp chuẩn, hợp quy. Trong quy định về hợp chuẩn, hợp quy, mỗi lô hàng cần được phân tích, đánh giá đạt chỉ tiêu trước khi đưa ra thị trường.
Tuy nhiên, theo các cán bộ thanh tra chuyên ngành nông nghiệp, hầu hết các sản phẩm phân bón trên thị trường hiện không có giấy chứng nhận chất lượng hàng hóa đi kèm. Việc thiếu giấy tờ này phổ biến đến nỗi các đơn vị chức năng giờ chỉ phạt hành chính, vì coi là chuyện "thường ngày ở huyện".
Lãnh đạo một DNSX phân bón lớn thuộc Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem) kiến nghị, Chính phủ nên quy định bắt buộc các DNSX phân bón phải tự trang bị 1 phòng phân tích đúng tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng mỗi lô hàng của chính mình trước khi đưa ra thị trường.
Bởi chỉ khi có phòng thí nghiệm với các dụng cụ hiện đại, đội ngũ cán bộ phân tích được đào tạo bài bản DN mới kịp thời kiểm tra chất lượng nguyên liệu để có số liệu tính toán, điều chỉnh phối liệu SX và kiểm tra chất lượng từng công đoạn thật tốt, bảo đảm chắc chắn sản phẩm SX ra đạt mức chất lượng thiết kế.
Nếu chỉ đi thuê phân tích như hiện nay, thời gian từ lúc lấy mẫu, đi thuê đến khi có kết quả tối thiểu mất khoảng 20 ngày. Lúc đó, giả sử chất lượng không đạt thì hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn tấn sản phẩm đã đến tận đồng ruộng, liệu DN có thu hồi về xử lý hay tặc lưỡi bỏ qua?
Vậy nhưng Nghị định 202 và Thông tư 29 hướng dẫn vẫn cho phép DNSX phân bón không phải trang bị phòng phân tích mà có thể đi thuê hoặc hợp tác với những phòng phân tích đã được chỉ định.
Với số lượng quá nhiều, trên 30 phòng phân tích được chỉ định nhưng thiếu kiểm tra năng lực, lại trong tình trạng thiếu việc như hiện nay việc sinh tiêu cực trong các kết là khó tránh khỏi.
Chỉ vì chưa có phòng phân tích đủ trình độ, năng lực để trở thành trọng tài nên có thực tế dở khóc dở cười là một mẫu phân bón gửi 3 phòng phân tích cho ra 3 kết quả khác nhau, sai số lên tới hàng chục phần trăm.
Trong trường hợp này, cơ quan quản lý lúng túng không biết xử lý theo hướng nào khi 3 phòng phân tích đều có chứng nhân pháp lý như nhau?
Chọn kết quả phân tích có lợi cho DN thì không sao, nhưng nếu có ý định xử phạt, lập tức DN phân bón phản ứng và yêu cầu phúc tra theo quy định của Bộ KH-CN.
Khi đó, DN có quyền gửi mẫu tới phòng phân tích họ chỉ định và hầu hết kết quả lần phân tích thứ 2 đều đạt theo chỉ tiêu công bố trên bao bì của DN, bởi hầu hết các DN phân bón hiện đều có một hoặc vài phòng phân tích “ruột” nào đó.
THANH TRA “NON TAY”
Chính sự nhùng nhằng, thiếu minh bạch ở khâu lấy mẫu, phân tích mà hiện công tác thanh tra phân bón trên thị trường mục đích chính vẫn chỉ để xử phạt hành chính, “phạt cho tồn tại”.
Và có một thực tế là bộ phận không nhỏ lực lượng thanh tra chuyên ngành, quản lý thị trường hiện nay “non tay” không dám truy trách nhiệm đến cùng DN phân bón làm sai vì thiếu công vụ, chế tài, vừa không được gì lại dễ bị DN kiện lại.
Theo nhiều chuyên gia và DN, Nghị định 202 ra đời dù có nhiều tiến bộ, nhưng nếu công tác thanh, kiểm tra xử lý phân bón ngoài thị trường không có sự thay đổi khó hi vọng có sự đột phá.
Thế nên dù có thanh tra hết năm này qua năm khác, hết đoàn này đến đoàn kia thực trạng SX-KD phân bón trên thị trường vẫn bát nháo, thật giả lẫn lộn. Các kết quả thanh tra phần lớn được cất kỹ trong mấy ngăn tủ mà ít khi được công khai trên phương tiện thông tin đại chúng.
Theo ông Trần Xuân Định, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), việc thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm SXKD phân bón giờ càng trở nên bất cập hơn khi chồng chéo trong việc phân công nhiệm vụ giữa 2 ngành công thương và nông nghiệp.
Bộ Công thương được giao quản lý từ A-Z phân vô cơ, theo Thông tư 29 của Bộ này, nó cũng bao gồm một loạt các loại phân bón khác nữa, kể cả phân khoáng hữu cơ, các chất phụ gia, chất kích thích, chất làm tăng hiệu suất…
Và theo ngành dọc, Sở Công thương các tỉnh sẽ chịu trách nhiệm quản lý, thanh tra, kiểm tra các cơ sở SX-KD những loại phân bón nói trên.
Thế nhưng, tại các tỉnh có “bói” cũng không đủ cán bộ chuyên môn có hiểu biết tàm tạm về lĩnh vực này, vậy thanh kiểm tra cái gì khi không đủ nguồn nhân lực.
Trong khi thực tế các đại lí, cửa hàng và thậm chí cả DN đều vừa bán hoặc SX cả phân vô cơ và hữu cơ. Nếu không có hướng dẫn chi tiết hoặc phối hợp chặt chẽ giữa 2 ngành công thương và nông nghiệp sẽ tạo ra lỗ hổng để DN và đại lý lợi dụng nhằm trốn tránh, ngăn cản lực lượng chức năng kiểm tra, lấy mẫu, xử phạt.
Nguồn bài viết: http://nongnghiep.vn/lo-hong-thanh-tra-xu-ly-phan-bon-post134855.html
Có thể bạn quan tâm

Những năm trước cứ sau mỗi mùa vụ, Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam (VPA) lại đưa ra dự báo sản lượng hồ tiêu giảm, còn năm nay tổ chức này đưa ra dự báo sản lượng hồ tiêu vào khoảng 150.000 tấn, tăng khoảng 30.000 tấn so với năm trước.

Từ hiệu quả của mô hình trồng nấm linh chi và nấm bào ngư của HTX Nông nghiệp - Kinh doanh tổng hợp Bình Kiến 2 (HTX Bình Kiến 2), hiện nay nhiều hộ dân ở xã Bình Kiến (TP Tuy Hòa, Phú Yên) đã học tập, đầu tư; bước đầu cho kết quả khả quan, mang lại nguồn thu nhập khá.

Để giúp bà con đồng bào dân tộc thiểu số thay đổi nhận thức, thay đổi tập quán sản xuất và nâng cao đời sống, phát triển kinh tế gia đình, huyện Đức Cơ (Gia Lai) đã triển khai mô hình cải tạo vườn tạp và bước đầu đã mang lại hiệu quả.

Trong những năm qua, tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi liên tục xảy ra, gây thiệt hại lớn cho người nuôi tôm ở các vùng ven biển và phía bắc quốc lộ 1A tỉnh Bạc Liêu, nhiều hộ dân lúng túng trong việc chuyển đổi sản xuất các đối tượng thủy sản khác như: cá kèo, cá mú, cá chẽm… thì Anh Ngô Văn Xíu đã thành công với nghề nuôi hàu thương phẩm, hàng năm cho thu nhập vài trăm triệu đồng.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa quyết định về chính sách tín dụng đối với người nuôi tôm và cá tra. Quyết định này quy định việc xử lý đối với các khoản nợ quá hạn và nợ đã được cơ cấu của khách hàng là hộ dân, chủ trang trại, hợp tác xã nuôi tôm và cá tra gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh và trả nợ tổ chức tín dụng đến ngày 31/12/2013.