Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá lóc đầu nhím

Nuôi vỗ cá bố mẹ
Cá bố mẹ được chọn từ các ao nuôi thương phẩm hoặc các ao nuôi cá hậu bị của trại giống. Chọn cá bố mẹ khỏe mạnh, không bị trầy xước, có trọng lượng khoảng 600 - 1.200 g. Cá có trọng lượng khoảng 700 g có sức sinh sản tốt nhất.
Ao nuôi vỗ cá bố mẹ là ao đất, có diện tích khoảng 500 - 1.500 m2, độ sâu khoảng 1,5 - 2 m. Trước khi thả cá bố mẹ vào, ao phải được cải tạo kỹ và gây màu nước. Thời gian nuôi vỗ cá bố mẹ khoảng từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, mật độ nuôi vỗ khoảng 2 - 3 kg/10 m2 ao. Cho cá ăn bằng cá tạp cắt khúc vừa miệng cá, ngày cho ăn 2 lần, sang sớm và chiều mát, mỗi ngày cho ăn 3 - 5% trọng lượng cá. Trước khi cho cá đẻ khoảng 1 tháng kiểm tra độ thành thục của cá, những con thành thục tốt chúng ta sẽ cho vào những cái vèo đặt trong ao, cho cá đực và cá cái vào 2 vèo riêng biệt.
Kỹ thuật cho đẻ
Chọn cá cái có bụng to tròn, dùng que thăm trứng để lấy trứng ra kiểm tra, thấy trứng tròn đều màu vàng tươi, có đường kính từ 1,2 - 1,6mm và rời ra là tốt. Chọn cá đực có thân thon dài, vuốt dưới bụng có sẹ màu trắng sữa chảy ra là tốt.
Cá lóc có thể đẻ trong ao đất hoặc trong bể xi măng, tuy nhiên dùng bể xi măng chúng ta dễ phòng bệnh hơn, bể xi măng có hình vuông 80 x 80 x 80 cm. Buồng trứng cá lóc chia thành nhiều ổ, mỗi ổ khoảng 3.000 - 5.000 trứng, do đó nếu tiêm kích dục tố thì có thể làm cho cá đẻ một lúc hết, nên một số trứng chưa chín cũng đẻ luôn dẫn đến chất lượng con giống không tốt, hơn nữa nếu sinh sản theo cách tiêm kích dục tố thì cá chỉ đẻ được 1 lần trong năm.
Do đó chúng ta cho cá đẻ theo cách tự nhiên cho chất lượng con giống tốt hơn. Trước hết chúng ta vệ sinh bể sạch sẽ, lấy nước vào bể khoảng 50 - 60 cm, cho mỗi cặp cá bố mẹ vào 1 bể sau đó cho một ít cây rau muống vào bể, rau muống chiếm khoảng 20 - 40% diện tích bề mặt bể, với sự kích thích của nước mới và rau muống sau 1 đêm cá sẽ đẻ. Do buồng trứng cá chia thành nhiều ổ nên những ổ nào trứng chín muồi cá sẽ đẻ, mỗi lần cá thường đẻ từ 1 - 4 ổ. Để cho cá đẻ 2 đêm thì thu trứng đem đi ấp, lấy vợt có mắt lưới mịn vớt trứng cho qua bể ấp. Cá bố mẹ cho trở lại 1 cái vèo khác đặt trong ao và tiếp tục nuôi vỗ tái thành thục, khoảng 1 tháng sau thì cá có thể thành thục và sinh sản tiếp. Cặp nào không đẻ chúng ta cho trở lại vào vèo nuôi vỗ tiếp. Với phương pháp này, tỉ lệ cá đẻ có thể đạt khoảng 60 - 80%.
Trứng cá lóc có thể ấp trong thau nhựa hoặc trong bể Composite, trước khi ấp cần khử trùng dụng cụ băng Iodine nồng độ 2 - 4 ml/m3. Mực nước cho vào khoảng 0,2 - 0,3 m, Mật độ ấp 10.000 - 20.000 trứng/m2, những trứng không được thụ tinh sau 10 giờ sẽ chuyển sang màu đục và chìm xuống đáy, chúng ta sẽ xi phông đáy để loại những trứng này. Trong quá trình ấp cho nước chảy nhẹ liên tục. Ở nhiệt độ 28 - 300C, sau 20 - 26 giờ trứng sẽ nở thành cá bột.
Ương cá bột lên hương
Ao ương cá diện tích khoảng 200 - 3.000 m2, tuy vào quy mô của cơ sở, độ sâu khoảng 1,5 - 2 m, bón vôi để diệt tạp, diệt mầm bệnh liều lượng khoảng 10 - 15 kg/100 m2 ao, cấp nước vào ao qua túi lục min, mực nước khoảng 1,2 - 1,5 m. Gây màu nước bằng thức ăn công nghiệp cho cá 40% đạm dạng bột mịn 10 kg cho 1.000 m2 ao, sau khoảng 3 ngày sẽ có màu nước và trứng nước. Mật độ thả cá ương từ 100 - 200 cá bột/m2 ao.
Lúc mới thả vào chúng ta không cần cho cá ăn vì cá còn noãn hoàng, từ ngày thức 3 trở đi cho cá ăn trứng nước khoảng 150 kg trứng nước tươi cho 10.000 cá bột trong một ngày. Do cá lóc có tính dữ, chúng ăn thịt lẫn nhau rất nhiều nên phải cho cá ăn liên tục không ngừng, khi chúng ta cho thức ăn vào sàng ăn nhưng con lớn sẽ vào ăn trước sau khi ăn no chúng sẽ ra ngoài nghỉ ngơi, lúc đó những con nhỏ mới vào ăn được, một lúc sau những con lớn lại vào sàng ăn tiếp, do đó thức ăn trong sàng phải luôn luôn còn. Đến ngày thứ 10 cho ăn thêm cá xay nhỏ, trộn chung với trứng nước, giảm dần lượng trứng nước trong bữa ăn và đến ngày 21 thì có thể cho ăn hoàn toàn bằng cá biển.
Trong quá trình ương, chúng ta phải phân cỡ cá liên tục để hạn chế cá ăn nhau, khi ương được cá có chiều cao thân 2 mm bắt đầu phân cỡ cá. Phân cỡ cá bằng cách lấy lưới lồng 2 kéo cá gom lại, những con nhỏ sẽ lọt qua lưới, còn những con lớn sẽ nằm lại trong lưới, cho những con này vào 1 cái vèo đặt trong ao ương và vẫn cho ăn bình thường, đến 2 ngày sau những đàn cá ngoài ao đã lớn bằng cá trong vèo, khi đó chúng ta thả cá trong vèo ra. Và 2 ngày sau chúng ta tiếp tục phân cỡ cá tiếp. Khi ương cá được khoảng 25 - 35 ngày tuổi, cá đạt chiều cao thân từ 6 - 8 mm, chúng ta bắt đầu bán cho các ao nuôi cá thịt. Tỉ lệ sống ương từ bột lên 35 ngày tuổi có thể đạt khoảng 75 - 85%.
Có thể bạn quan tâm

Từ giữa tháng 8/2013, Tổng cục Thủy sản đã yêu cầu kiểm tra công tác phòng chống dịch bệnh thủy sản tại 14 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương (TW), đến đầu tháng 10, kết quả kiểm tra cho thấy tình hình dịch bệnh trên các đối tượng thủy sản quan trọng, đặc biệt là tôm nuôi nước lợ tuy có giảm so với cùng kỳ năm 2012, nhưng vẫn còn xảy ra trên diện rộng, gây thiệt hại ở nhiều địa phương.

Nhà máy thủy điện Hàm Thuận – Đa Mi nằm trên lưu vực sông La Ngà thuộc sông Đồng Nai là sự kết nối giữa 2 nhà máy Hàm Thuận và Đa Mi cách nhau khoảng 10km, trên địa bàn 2 tỉnh Lâm Đồng và Bình Thuận với diện tích mặt thoáng khoảng 25,2 km2. Nhà máy thủy điện Hàm Thuận gồm 2 tổ máy với công suất 300MW. Nhà máy thủy điện Đa Mi gồm 2 tổ máy với công suất là 175MW.

Trong năm 2013, nghề nuôi tôm của Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với nhiều loại dịch bệnh, như: bệnh hoại tử gan tụy cấp, bệnh đốm trắng, bệnh đầu vàng, bệnh hoại tử dưới vỏ và cơ quan tạo máu… Tuy nhiên, nhờ những chỉ đạo đúng đắn, kịp thời trong việc hướng dẫn sản xuất và phòng chống dịch bệnh, cùng với những nỗ lực của các cơ sở nuôi trồng thủy sản, dịch bệnh trên tôm đã giảm. Giá tôm tăng đã giúp người nuôi tôm có lãi. Nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng đang phát triển theo chiều hướng tích cực.

Sau nhiều năm làm ruộng, chuyển đổi một số cây trồng không hiệu quả, anh Phạm Văn Muôn (nông dân khóm Bình Đức 2, phường Bình Đức, TP. Long Xuyên, An Giang) mạnh dạn đầu tư nuôi bò sữa, bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Hiện nay, trong khi các hộ chăn nuôi lợn, gà đang gặp khó khăn về đầu ra của sản phẩm và chịu nhiều rủi ro vì giá thất thường thì các hộ chăn nuôi bò nói chung và nuôi bò thịt nói riêng lại đang có lãi. Đặc biệt, từ năm 2012, thành phố triển khai dự án chăn nuôi bò BBB ở các huyện ngoại thành Hà Nội đang mở ra hướng làm giàu cho người nông dân.