Kinh Phí Nhà Nước Cho KHCN Trong Nông Nghiệp Bị Chia Năm Sẻ Bảy

Mặc dù tổng kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ cấp cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn giai đoạn 2008-2013 khoảng 4.000 tỷ đồng, nhưng có tới 32% chi cho lương và hoạt động bộ máy. Nghiên cứu còn phân tán, thiếu tính đột phá và tính ứng dụng không cao…
Đó là khẳng định của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Lê Quốc Doanh tại Hội thảo Khoa học và Công nghệ Phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, khai mạc sáng 06/12 tại Hà Nội.
Theo ông Lê Quốc Doanh, trong giai đoạn 2008-2013, tổng kinh phí nhà nước đầu tư cho nhiệm vụ KHCN cấp nhà nước do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý trong lĩnh nông nghiệp, nông thôn là 2.143 tỷ đồng, chiếm 30% tổng kinh phí cho các nhiệm vụ nhà nước. Trong khi đó, kinh phí sự nghiệp KHCN cấp cho Bộ NN&PTNT giai đoạn 2008-2013 là gần 4.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 13% tổng kinh phí sự nghiệp KHCN của cả nước.
Ở giai đoạn này, trong tổng kinh phí chi cho KHCN cấp về Bộ NN&PTNT từ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN), hơn 1.200 tỷ đồng được chi cho lương và hoạt động bộ máy, chiếm 32% tổng kinh phí được cấp. Riêng năm 2014, kinh phí sự nghiệp khoa học là hơn 720 tỷ đồng, trong đó chi cho lương và hoạt động bộ máy tăng lên khoảng 321 tỷ đồng, chiếm 44%, do lương cơ bản tăng theo quy định của nhà nước.
Thứ trưởng nhận định rằng: Nhìn chung trình độ KHCN nông nghiệp trong nhiều lĩnh vực của nước ta còn thấp và chậm phát triển, có khoảng cách xa so với thế giới và khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động lực của phát triển kinh tế - xã hội.
“Nghiên cứu còn phân tán, thiếu tính đột phá và tính ứng dụng không cao. Các công trình nghiên cứu cơ bản có chất lượng thấp, số công bố quốc tế của Việt Nam hiện nay bằng 1/3 của Thái Lan, 1/4 củaMalaysia và 1/6 của Singapore. Nhiều công trình nghiên cứu không đi đến kết quả ứng dụng thực tiễn sản xuất. Hàm lượng khoa học trong sản phẩm nông nghiệp còn thấp, hiệu quả chưa cao. Những nghiên cứu về gói kỹ thuật còn hạn chế, nghiên cứu về cơ khí nông nghiệp, bảo quản, xử lý sau thu hoạch rất ít và tác động trong sản xuất chưa cao,” ông Doanh khẳng định.
Đầu tư cho KHCN trong nông nghiệp còn hạn chế
Hiện cả nước có trên 33.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó trên 93% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, mức đầu tư cho đổi mới công nghệ chiếm tỷ lệ nhỏ trên tổng số doanh thu; 90% trong số này là các doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng.
Theo kết quả điều tra của Cục Ứng dụng và Phát triển Công nghệ (Bộ KH&CN) trên 1.500 doanh nghiệp có hoạt động KHCN, có 350 doanh nghiệp có tiềm nang phát triển thành doanh nghiệp KHCN, nhưng trong số đó chỉ có 28 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm 8%.
Như vậy, để được hưởng các chế độ ưu đã hỗ trơ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp KHCN, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (NNƯDCNC) thì doanh nghiệp nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất thấp.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2011, chỉ có 1.090 đơn vị thông báo có đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, chiếm 0,34% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động, với tổng kinh phí là 5.439 tỷ đồng. Trong đó, kinh phí cho nghiên cứu và phát triển là khoảng 1.500 tỷ đồng.
Hiện nay Việt Nam có khoảng 2.000 doanh nghiệp KH&CN trong các lĩnh vực. Năm 2013, có 65 doanh nghiệp được Bộ KH&CN cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KHCN. Các địa phương đã cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KHCN cho trên 100 doanh nghiệp.
Hiện nay, có trên 400 doanh nghiệp công nghệ cao đang hoạt động tại các khu công nghệ cao trong đó có 20 doanh nghiệp được Bộ KH&CN cấp giấy chứng nhận và 11 doanh nghiệp do Bộ NN&PTNT cấp giấy chứng nhận.
Trong thời gian tới, cần có chính sách đồng bộ để khuyến hích và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào KHCN trong lĩnh vực nông nghiệp. Cần tăng đầu tư cho KHCN trong nông nghiệp; tập trung xây dựng một số viện, trung tâm nghiên cứu nông nghiệp thành các tổ chức KHCN mạnh, đạt trình độ khu vực và quốc tế, tiếp tục đầu tư nâng cấp các phòng thí nghiệm….
Nguồn bài viết: http://nongnghiep.vn/kinh-phi-nha-nuoc-cho-khcn-trong-nong-nghiep-bi-chia-nam-se-bay-post135662.html
Có thể bạn quan tâm

Trong những năm gần đây, các mô hình nuôi trồng thủy sản ở huyện Gia Bình (Bắc Ninh) ngày càng phát triển với nhiều loại vật nuôi mới mang hiệu quả kinh tế cao, trong đó phải kể đến loài ba ba gai. Không chỉ nuôi thành công ba ba gai theo hướng thương phẩm, một số mô hình đã bước đầu sản xuất được ba ba gai giống, mở ra hướng đi mới cho bà con nông dân.

Hiện giá cá ngừ đại dương xuống thấp ở mức kỷ lục, trong khi đó giá xăng dầu, đá cây và các loại nhu yếu phẩm khác tăng cao, khiến nhiều chuyến biển của ngư dân không có lãi; bạn thuyền lần lượt bỏ nghề, tàu phải nằm bờ.

Ông Đoàn Công Tránh, xã Nguyễn Huân, huyện Đầm Dơi (Cà Mau), khoe: “Năm nay sò cũng được, tôm cũng có lý”. Mô hình nuôi sò huyết kết hợp nuôi tôm đang mang về giá trị kinh tế cho người dân huyện Đầm Dơi.

Ban quản lý Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm (TP.Hội An - Quảng Nam) cho biết, những ngày qua, nhiều phương tiện khai thác hải sản trên địa bàn tỉnh đã xâm nhập và khai thác trái phép tôm hùm tại vùng biển Cù Lao Chàm (xã đảo Tân Hiệp, TP.Hội An). Theo đó, trong ngày 2/4, đơn vị đã kịp thời ngăn chặn việc khai thác, mua bán và vận chuyển trái phép 50 kg tôm hùm tại xã đảo. Khối lượng lớn tôm hùm này đã được 16 phương tiện hành nghề khai thác hải sản ven bờ của huyện Núi Thành khai thác trái phép và bán lại cho người dân địa phương.

Để đạt được mục tiêu, ngày từ đầu tháng 3, phòng nông nghiệp huyện đã phối hợp với chính quyền các địa phương có diện tích nuôi tôm, chỉ đạo các chủ đồng nuôi tập trung cải tạo đầm, chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện, sẵn sàng thả tôm giống khi thời tiết thuận lợi. Nhờ chuẩn bị tốt các điều kiện, nên đến ngày 31-3-2013, toàn huyện đã thả nuôi được 55 triệu con tôm sú.