Khoa học công nghệ cho tái cơ cấu chăn nuôi

Những kết quả nổi bật
Từ năm 2011 - 2015, Viện đã tổ chức triển khai, thực hiện 89 đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước; 218 đề tài cấp Bộ; 30 dự án hợp tác quốc tế và hơn 100 dự án phối hợp với địa phương, doanh nghiệp cùng ngành khuyến nông.
Trung bình hàng năm, các đề tài, dự án nghiên cứu về giống chiếm 59%, về dinh dưỡng, thức ăn chiếm 24%, về công nghệ sinh học chiếm là 6%; lĩnh vực khác (chăn nuôi, thú y, môi trường, phát triển nguồn gen vật nuôi…) 11%.
Trong 5 năm gần đây có 134 nghiên cứu khoa học nổi bật, phần lớn đã được ứng dụng và chuyển giao vào thực tiễn SX tại các vùng sinh thái trên cả nước.
50 tiến bộ kỹ thuật đã được Bộ công nhận và ứng dụng vào thực tiễn SX với quy mô lớn và có hiệu quả kinh tế cao.
Trong đó, có 4 dòng, tổ hợp lai các giống lợn, 16 dòng/giống gà, 6 dòng ngan, 6 dòng/giống vịt, 4 dòng đà điểu mới, 2 chế phẩm probiotic, 4 chế phẩm thay thế kháng sinh có nguồn gốc thảo dược bổ sung vào thức ăn, 2 công thức môi trường pha loãng tinh dịch bảo quản dài ngày, 8 quy trình công nghệ tạo các tổ hợp lợn, gia cầm, bò lai;
Ngoài ra còn 17 quy trình kỹ thuật chế biến, bảo quản thức ăn, nuôi dưỡng chăm sóc gia súc, gia cầm và 4 quy trình chế biến, bảo quản các sản phẩm chăn nuôi như thịt, trứng, sữa.
Hàng năm từ các kết quả nghiên cứu, Viện đã chuyển giao vào SX nhiều sản phẩm công nghệ có giá trị.
"Viện cần tăng cường hợp tác quốc tế, tham gia phản biện cho Bộ, ngành và địa phương về các chính sách của ngành. Tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, trở thành những chuyên gia của ngành chăn nuôi...", Thứ trưởng Vũ Văn Tám chỉ đạo.
Mỗi năm Viện cung cấp ra thị trường hàng chục triệu gà, vịt, ngan giống ông bà, bố mẹ, hàng chục ngàn lợn giống, dê giống, thỏ giống, trâu, ngựa có năng suất tốt và 600 - 800 ngàn liều tinh bò đông lạnh.
Ước tính giá trị gia tăng từ các sản phẩm KHCN do Viện cung cấp bình quân hàng năm từ 11 - 12 ngàn tỷ đồng (năm 2014 ước tính là 11,5 tỷ đồng).
Định hướng& kiến nghị
Theo TS Nguyễn Thanh Sơn, Viện trưởng Viện Chăn nuôi, với những thành công trong giai đoạn 2011 - 2015, trong giai đoạn 2015 - 2020, Viện tiếp tục tập trung vào các đề tài nghiên cứu, chuyển giao nhằm nâng cao năng suất, chất lượng các giống gia súc, gia cầm, TĂCN và công tác xử lý môi trường.
Để hoàn thành mục tiêu này, TS Nguyễn Thanh Sơn kiến nghị, cần có sự thay đổi trong việc xác định các nhiệm vụ KHCN về lĩnh vực chăn nuôi.
Thứ nhất, các Bộ cần ưu tiên xây dựng và triển khai các chương trình nghiên cứu dài hạn đối với các sản phẩm chăn nuôi trọng điểm, mang tầm quốc gia và các sản phẩm vùng để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành chăn nuôi khi hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới...
Thứ hai, các Bộ sớm ban hành văn bản thống nhất hướng dẫn về tiền lương, tiền công và cho hoạt động bộ máy trong dự toán kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng của tổ chức KHCN và trong việc thực hiện các nhiệm vụ KHCN (xem xét sửa đổi bổ sung Thông tư 121)...
Thứ ba, bổ sung đối tượng thực hiện Nghị định 115 cho các tổ chức KHCN, thí điểm chuyển đổi sang doanh nghiệp KHCN 100% vốn nhà nước và giúp Viện sớm chuyển đổi thí điểm 2 trung tâm nghiên cứu thành doanh nghiệp KHCN.
Thứ tư là bổ sung một số quy định về giao đất và cho thuê đất đối với tổ chức KHCN và các quy định về việc huy động tài sản khác như nhà xưởng, thiết bị máy móc được Nhà nước giao cho các tổ chức KHCN quản lý để góp vốn vào liên doanh, liên kết trong nghiên cứu và SX dịch vụ.
Về cơ chế khoán trong hoạt động KHCN, Viện trưởng Nguyễn Thanh Sơn đề nghị xem xét sửa đổi các quy định hiện hành theo hướng khoán triệt để hơn đến sản phẩm cuối cùng, thay vì chỉ dừng lại khoán một số hoạt động như hiện nay.
Song song đó, hoàn thiện cơ chế tài chính đối với hoạt động KHCN. Từ định mức chi tiêu, thủ tục thanh toán, cơ chế nghiệm thu; bãi bỏ các thủ tục thanh toán rườm rà không phù hợp với thực tiễn.
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Vũ Văn Tám đánh giá cao những hoạt động khoa học mà Viện Chăn nuôi đã đạt được. Hội nghị này để đánh giá lại năm 2015, xây dựng kế hoạch cho những năm tiếp theo, trong đó KHCN được coi là giải pháp hàng đầu.
Tuy nhiên, đây là thời điểm ngành chăn nuôi trong nước đang thực hiện tái cơ cấu, tham gia hội nhập sâu hơn vào các thị trường.
Vì vậy, Thứ trưởng đề nghị Viện Chăn nuôi cần tập trung bám sát vào thực tiễn, đặc biệt là tái cơ cấu. Tập trung KHCN phát triển những sản phẩm chăn nuôi có thế mạnh, giúp hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh tốt hơn. Gắn hoạt động KHCN với yêu cầu của doanh nghiệp, địa phương để đưa sản phẩm vào thực tiễn.
Có thể bạn quan tâm

Mục tiêu được đưa ra tại Hội nghị chuyên đề về xuất khẩu (XK) do UBND tỉnh tổ chức gần đây, KNXK toàn tỉnh của năm 2014 dự kiến chỉ đạt khoảng 1,3 tỷ USD. Như vậy, đến thời điểm này, kim ngạch xuất khẩu đã vượt chỉ tiêu kế hoạch, trong khi còn đúng 1 tháng nữa mới kết thúc năm 2014. Thủy sản và gạo, 2 mặt hàng chủ lực của tỉnh, vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng, tuy giá trị thực mang về có thể không tăng bằng những năm trước đây.

Miễn thuế tài nguyên khi khai thác hải sản tự nhiên, thuế môn bài, thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với một số loại thu nhập như: thu nhập từ hoạt động khai thác hải sản, thu nhập từ dịch vụ hậu cần phục vụ trực tiếp cho hoạt động khai thác hải sản xa bờ; thu nhập từ đóng mới, nâng cấp tàu cá có tổng công suất máy chính từ 400CV trở lên để phục vụ hoạt động khai thác hải sản.

Kỹ thuật chế biến tôm Paramay thực hiện theo quy trình nghiêm ngặt, sử dụng các thiết bị công nghệ tiên tiến, đảm bảo yêu cầu xuất khẩu như: nguồn nguyên liệu đạt chuẩn, chế biến an toàn, hợp vệ sinh thực phẩm. Khi đưa vào vận hành, dây chuyền này có thể đảm bảo sản xuất gần 7.000 tấn/năm.

Ngày 16-7, Tổng cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và PTNT) phối hợp với Sở Nông nghiệp - PTNT và UBND huyện Nà Hang (Tuyên Quang) tổ chức thả cá giống tái tạo nguồn lợi thủy sản trên hồ thủy điện Tuyên Quang.

Ngày 3/12, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư tỉnh phối hợp với Đạm Cà Mau và Công ty Bảo vệ thực vật An Giang tổ chức hội thảo đánh giá tình hình triển khai thực hiện mô hình hợp tác 4 nhà trong chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo theo hướng bền vững tại ấp Minh Hà A, xã Khánh Bình Đông, huyện Trần Văn Thời.