Khép lại mùa Vải thiều thắng lớn nhất trong hơn 60 năm qua

50% tiêu thụ trong nước
Những ngày này, màu xanh của cây vải đã trở lại trên những vạt đồi vốn đỏ rực vải chín vào tháng trước của gia đình anh Giáp Văn Liên (thôn Kép 1, xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang). Được tham gia chương trình sản xuất sạch (tiêu chuẩn GlobalGap), vải thiều của gia đình anh Liên đóng góp 3 tạ xuất khẩu sang thị trường Mỹ với giá 35 nghìn đồng/kg.
Cũng vì tiếng thơm có vải “sạch” đi Mỹ, nhiều cá nhân, tập thể đã đến tận nhà anh đặt hàng với giá cao hơn cả vải thiều đi Mỹ. “Thương lái Trung Quốc họ không quan tâm mình sản xuất theo tiêu chuẩn nào. Miễn là mẫu mã đẹp, quả to là họ mua với giá cao. Nhưng người tiêu dùng trong nước lại rất quan tâm đến vải thiều sạch và sẵn sàng trả giá cao để mua ăn, biếu, tặng. Sang năm nếu không được nằm trong chương trình sản xuất vải thiều sạch xuất khẩu, gia đình tôi vẫn tiếp tục làm”- anh Liên khẳng định. Với mặt bằng giá được nâng lên, anh Liên vui mừng khoe vườn vải rộng gần 1ha đã thu được 7 tấn quả vải tươi, giá trung bình 22 nghìn đồng/kg, tổng thu từ vụ vải được chừng 50 triệu đồng”.
Khảo sát của PV Tiền Phong, tại Lục Ngạn hiện chỉ còn rải rác các điểm thu mua của các thương lái trong nước, hầu như không còn bóng dáng của các điểm cân của thương nhân Trung Quốc. Hiện giá vải thiều đã giảm đáng kể so với thời điểm chính vụ, với khoảng 15-16 nghìn đồng/kg (loại 1). Nhiều nông dân mang vải đi bán với giá khoảng 6-7 nghìn đồng/kg. Bà Nguyễn Thị Nắng, một thương nhân thu mua ở phố Kim, Phượng Sơn, Lục Ngạn cho biết: “Bây giờ chủ yếu là vải thiều muộn nên mẫu mã, phẩm cấp đều kém, giá như vậy cũng là hợp lý”.
Trao đổi với Tiền Phong, ông Trần Quang Tấn, Chủ tịch UBND huyện Lục Ngạn cho biết, vụ vải năm nay, sản lượng toàn huyện lên đến 118 nghìn tấn, tổng giá trị thu được 1.770 tỷ đồng, cao nhất trong hơn 60 năm qua. “Năm nay, giá vải bán bình quân cao hơn năm ngoái 2.500 đồng/kg. Cứ cao hơn 1.000 đồng, bà con toàn huyện thu thêm 118 tỷ đồng”- ông Tấn nói. Theo ông, năm nay, vải thiều Lục Ngạn xuất khẩu đi nước ngoài khoảng 60 nghìn tấn (trong đó Trung Quốc chiếm khoảng 40%) chiếm khoảng nửa sản lượng vải. Những năm trước, vải tiêu thụ trong nước khoảng 30-40%, năm nay tăng lên 50%.
Gắng giữ chữ tín
Được biết, trong vụ vải vừa qua, Bắc Giang đã quyết định cấp bổ sung gần 700 triệu đồng cho hai đơn vị xuất khẩu vải thiều tươi sang Mỹ là Công ty TNHH MTV Ánh Dương Sao (hơn 320 triệu đồng) và Công ty TNHH MTV Quản lý và kinh doanh chợ nông sản Thủ Đức (gần 360 triệu đồng) để hỗ trợ vận chuyển. Tuy nhiên, phía Công ty TNHH MTV Quản lý và kinh doanh chợ nông sản Thủ Đức không thực hiện được. Ngoài ra, tỉnh quyết định tạm cấp 500 triệu đồng cho UBND huyện Lục Ngạn để mua vải thiều tươi đưa vào khẩu phần ăn của hành khách trên các chuyến bay của Vietnam Airlines.
Với sản lượng vải thiều đi sang các nước “giá cao” chỉ đạt khoảng 150 tấn, trong đó, thị trường Mỹ đạt gần 2,4 tấn, Pháp: 2,1 tấn, Malaysia: 75 tấn, Úc và Anh khoảng 50 tấn, dù Bắc Giang khá thành công trong vụ vải năm nay, nhưng ông Phan Văn Hùng, Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bắc Giang tự thấy chưa hài lòng hoàn toàn. Theo ông Hùng, vải thiều Lục Ngạn gặp khó khăn lớn khi phải cạnh tranh với vải thiều Trung Quốc đang vào mùa thu hoạch. Mặt khác, vải thiều Bắc Giang muốn đi Mỹ, Úc phải vận chuyển vào Nam chiếu xạ, tăng thêm chi phí. Chưa kể, vải ban đầu chủ yếu xuất ngoại bằng máy bay, nên phí vận chuyển khá “chát”.
Theo tính toán, vải thiều tươi của Lục Ngạn khi đến Mỹ phải chi phí khoảng 200 nghìn đồng/kg, đi Úc mất khoảng 250 nghìn đồng/kg. “Tuy chi phí lớn nhưng đây chính là tiền đề quan trọng để vải thiều Lục Ngạn vào được các thị trường khó tính và mở rộng ra thế giới”- ông Hùng nói.
Còn theo ông Trần Quang Tấn, để chuẩn bị cho vụ vải năm 2016, Lục Ngạn chỉ giữ đúng 16.293 nghìn ha vải, trong đó có 9.500 ha trồng theo tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP và tập trung nâng cao chất lượng vải trồng. “Điều quan trọng phải gắn kết các doanh nghiệp với bà con nông dân. Tiếp tục động viên bà con làm một cách tận tâm, để giữ chữ tín vải thiều sạch”- ông Tấn nói.
Ông Hoàng Trung, Phó Cục trưởng BVTV (Bộ NN&PTNT) cho biết năm tới, Cục sẽ tiếp tục tham mưu cho Bộ, đàm phán tháo gỡ các rào cản kỹ thuật, khơi thông các thị trường mới như Nhật Bản, Hàn Quốc… Hiện Cục BVTV đã cấp 10 mã số vùng trồng vải chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, trong đó, Bắc Giang 8 mã, Hải Dương 2 mã số. Cục sẽ phối hợp, kiểm soát mã số vùng trồng, mở rộng diện tích mã vùng trồng cho thị trường khó tính.
Có thể bạn quan tâm

Ông Lê Văn Hòa là nông dân giàu kinh nghiệm về nuôi trồng thủy sản tại xã Trà Cổ (huyện Tân Phú). Ông cũng là người đi tiên phong trong việc thử nghiệm và nuôi thành công cá tầm, giống cá xứ lạnh ở vùng nhiệt đới. Theo ông Hòa, điều kiện khí hậu ở xã Trà Cổ, nhất là ở đây có nguồn nước suối tự nhiên, quanh năm mát lạnh phù hợp để nuôi giống cá vùng ôn đới này.

Nhiều năm qua, Trung tâm Ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao tỉnh Đồng Tháp (tiền thân là Trung tâm giống nông nghiệp Đồng Tháp) thường xuyên tổ chức nghiên cứu, khảo nghiệm chọn ra những giống lúa tốt và mới, có triển vọng để bổ sung hiệu quả vào bộ giống lúa sản xuất của tỉnh. Ngoài ra, Trung tâm còn phục tráng những giống lúa đã bị thoái hóa nhằm cung ứng kịp thời nhu cầu bà con nông dân.

Các cơ quan quản lý lẫn người nuôi cá tra vùng ĐBSCL, trong đó có Hậu Giang đang hết sức kỳ vọng vào sự đổi thay mạnh mẽ từ Nghị định 36 của Chính phủ về nuôi, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá tra. Thế nhưng, quá trình triển khai thực hiện bước đầu gặp không ít khó khăn, trở ngại, nhất là định hướng người dân áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.

Sau đề án tái cơ cấu của Bộ NN-PTNT, một số tỉnh, thành khu vực ĐBSCL cũng xây dựng đề án riêng. Theo các chuyên gia, cần phải có vai trò của đầu mối để tăng cường mối liên kết vùng, chứ không thể để tự mỗi địa phương làm theo ý riêng của mình.

Được thành lập năm 1998, Hợp tác xã (HTX) dịch vụ nông nghiệp và điện năng Vân Hùng (xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao) có nhiệm vụ chính phục vụ sản xuất nông nghiệp, đến năm 2002 chuyển sang quản lý điện, công trình nước sạch và các khâu dịch vụ. Hiện nay HTX có 1.270 xã viên, trong đó có 39 người trực tiếp làm 7 dịch vụ: Thuỷ lợi, bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật tư nông nghiệp, điện, vệ sinh môi trường, nước sinh hoạt.