Khảo Nghiệm Thành Công Dự Án Nuôi Lợn Rừng Sinh Sản Ở Lào Cai

Để góp phần thúc đẩy nghề nuôi lợn rừng phát triển bền vững, tạo việc làm cho người dân trên địa bàn, đồng thời nâng cao giá trị sản phẩm, thời gian qua, UBND tỉnh Lào Cai đã phê duyệt dự án khảo nghiệm nuôi lợn rừng sinh sản tại xã Quang Kim, huyện Bát Xát thuộc Chương trình khuyến khích ứng dụng khoa học và công nghệ. Dự án khảo nghiệm với 2 mục tiêu chính: Đánh giá sự thích nghi của lợn rừng đã được thuần hóa nguồn gốc Thái Lan tại huyện Bát Xát; cho phối giống tạo ra giống thuần chủng có chất lượng cao.
Dự án do bà Trần Thị Hoa, thôn Kim Thành, xã Quang Kim, làm Chủ nhiệm, với quy mô nuôi 4 con lợn đực giống (trọng lượng 50 - 60 kg/con); 10 con lợn nái rừng Việt Nam lai Thái Lan (trọng lượng 35 - 45 kg/con); 5 con nái giống lợn Mường Khương thuần chủng để lai tạo (trọng lượng 40 - 45 kg/con). Sau gần 2 năm khảo nghiệm, dự án đạt được kết quả như mục tiêu đề ra, đã bán ra thị trường 700 kg lợn hơi với giá 200.000 đồng/kg; cung ứng cho người dân trong vùng được 110 con lợn giống đảm bảo chất lượng, với giá từ 200.000 - 300.000 đồng/kg, con giống được người chăn nuôi đánh giá cao; đến nay thu nhập từ dự án là 448.000.000 đồng, trừ các chi phí và khấu hao 30% giống bố, mẹ, cho lãi thuần 80.000.000 đồng.
Bên cạnh đó, dự án còn đánh giá được tính thích nghi của lợn rừng theo từng chỉ tiêu cụ thể: Tỷ lệ sống; tỷ lệ chết; tỷ lệ nhiễm bệnh; các chỉ tiêu về sinh sản; ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu... Thức ăn dùng trong chăn nuôi lợn rừng là những loại sẵn có, dễ tìm của địa phương, như cám gạo, bột sắn, bột ngô hoặc ngô hạt, thóc nghiền… các loại này chiếm khoảng 30% trong khẩu phần ăn, còn lại 70% là thức ăn thô, xanh, như cây chuối, bí đỏ…
Qua quá trình khảo nghiệm mô hình nuôi lợn rừng sinh sản tại xã Quang Kim, cho thấy, quy trình kỹ thuật nuôi lợn rừng sinh sản đòi hỏi không cao, dễ nuôi, không tốn kém thức ăn, ít bị bệnh, kinh phí đầu tư ít, lợi nhuận thu được tương đối cao, thị trường tiềm năng. Lai lợn rừng bố thuần chủng với lợn nái địa phương thuần chủng tạo ra con lai có chất lượng tốt, khả năng chống chịu bệnh cao, phục vụ nhu cầu con giống tại chỗ cho người chăn nuôi trên địa bàn huyện. Đặc biệt, nuôi lợn rừng sinh sản góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao kinh tế gia đình. Việc nuôi được giống lợn rừng lai còn có tác dụng gìn giữ nguồn gen các giống lợn bản địa đang đứng trước tình trạng bị thoái hóa, hạn chế săn, bắt lợn rừng tự nhiên.
Có thể bạn quan tâm

Từ năm 2014 đến nay, dịch bệnh trên cá tra đã xuất hiện tại 67 xã thuộc 19 huyện của 4 tỉnh là An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long và Hậu Giang, với tổng diện tích bị bệnh trên 730 ha (chiếm 12% tổng diện tích nuôi cá tra cả nước).

Thời gian nuôi sò huyết từ 8 tháng đến một năm. Phần lớn bà con sử dụng lưới mành để bao xung quanh trên các bãi đất bồi ven sông và thả sò nuôi. Có hộ thu nhập cả trăm triệu đồng mỗi năm. Tuy nhiên, loại hình nuôi này cần được sắp xếp ổn định nhằm đảm bảo an toàn giao thông cho các phương tiện thủy.

Ngày 21-1, gia đình bà Huỳnh Thị Như Hoa (phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, Đà Nẵng) tổ chức lễ hạ thủy tàu cá ĐNa 90657 TS - thay thế tàu cá ĐNa 90152 bị Trung Quốc đâm chìm vào ngày 26-5-2014 khi đang đánh bắt trên vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam.

Tại xã Nhơn Lý (TP Quy Nhơn), trong những ngày này, cứ tầm 7 - 8 giờ sáng hàng ngày, lần lượt các ghe máy, thuyền thúng sau một đêm “săn” THG lại cập bến. Ngư dân Nguyễn Văn Hải chỉ vào xô nhựa đang đựng nửa lằm (50 con) THG, cho biết: “Hổm rày THG xuất hiện dày ở quanh các đảo nên ai cũng trúng, có người trúng 1 - 2 lằm/đêm, còn trúng nửa lằm như tui thì đếm không xuể”.

Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Quảng Ngãi cho biết, năm 2014 đã thực hiện chi hỗ trợ cho 1.021 lượt tàu cá của ngư dân trong tỉnh theo Quyết định số 48/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với tổng kinh phí hơn 140 tỷ đồng; trong đó hỗ trợ nhiên liệu 137,5 tỷ đồng, kinh phí còn lại là hỗ trợ mua bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm thuyền viên và máy thông tin liên lạc.