Khảo Nghiệm 7 Giống Ngô Biến Đổi Gen

Ngày 16/8, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Viện Nghiên cứu chính sách thực phẩm quốc tế (IFPRI) tổ chức hội thảo “Phát triển chiến lược tiếp cận cho hệ thống an toàn sinh học có hiệu quả tại Việt Nam”.
Theo Viện Di truyền nông nghiệp (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam), Việt Nam đang khảo nghiệm 7 giống ngô biến đổi gen trên nền các giống ngô lai: C919, 30Y87, NK66 có khả năng kháng sâu bộ cánh vảy, sâu đục thân, chống chịu thuốc trừ cỏ... Theo đó, nội dung khảo nghiện diện rộng bao gồm: đánh giá tác động của cây trồng biến đổi gen đối với đa dạng sinh học và môi trường thông qua điều tra đánh giá đa dạng quần thể sinh vật không chủ đích; đặc điểm nông sinh học và các yếu tố cấu thành năng suất; hiệu quả kháng sâu, kháng thuốc trừ cỏ của các giống khảo nghiệm so với cây trồng không biến đổi gen.
Địa điểm khảo nghiệm được thực hiện tại các trại sản xuất, nông trường, trung tâm ở các địa phương: Sơn La, Vĩnh Phúc, Nghệ An, Đắk Lắk, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai. Theo ông Phạm Văn Toản, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, cây trồng biến đổi gen, cũng như sản phẩm biến đổi gen nói chung hiện nay Việt Nam chủ yếu mới dừng ở nghiên cứu khảo nghiệm, chưa đi vào sản xuất thực tế. Dự kiến, từ năm 2012 Việt Nam sẽ đưa trồng cây biến đổi gen vào sản xuất.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bùi Bá Bổng, cho biết, những tác dụng tích cực của cây trồng biến đổi gen đã được chứng minh ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, việc ứng dụng những thành tựu khoa học này vừa là cơ hội và cũng là thách thức không nhỏ đối với các quốc gia, đặc biệt Việt Nam đang bước vào thời kỳ đầu của việc nghiên cứu, ứng dụng cây trồng biến đổi gen. Để phát triển cây trồng biến đổi gen, điều quan trọng là phải thiết lập hệ thống giám sát, quản lý rủi ro. Chính sách phát triển của Việt Nam là nâng cao năng lực, đồng thời tranh thủ kinh nghiệm các nước đi trước và sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế.
Có thể bạn quan tâm

Thu hoạch: Khác với các giống ngô thông thường, thời gian thu hoạch của ngô ngọt rất ngắn, chỉ trong 2-3 ngày. Khi nhìn các hạt ngô căng đều có màu vàng cam, râu hơi chớm héo thì thu hoạch. Nếu trồng để chế biến thì việc thu hoạch do cơ sở chế biến xác định. Chú ý: Trồng ngô ngọt tránh giai đoạn trỗ cờ phun râu gặp thời tiết trên 37°C và dưới 15°C. Ngô ngọt nhất thiết chỉ để 1 trái bắp/cây.

Ngô bao tử là cây có giá trị cao, cả trong tiêu dùng và xuất khẩu, có chất lượng dinh dưỡng cao, có nhiều vitamin E, các chất khoáng và protein. Là loại bao tử an toàn, do thu hoạch vào giai đoạn bắp non (bao tử) - giai đoạn sinh trưởng mạnh nhất, ít bị sâu bệnh nên không phải dùng thuốc bảo vệ thực vật, phần ăn được bọc kín trong lá bi nên tồn dư chất độc do nấm không có và hàm lượng NO3 trong sản phẩm cũng rất thấp.

Để làm tăng năng suất ngô, ngoài các biện pháp kỹ thuật chủ yếu như chọn giống tốt, sạch sâu bệnh, bón phân hợp lý và khoa học, tưới tiêu và chăm sóc phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng của ngô….thì một số biện pháp kỹ thuật tuy đơn giản nhưng lại có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng năng suất ngô, sau đây xin giới thiệu đến bà con nông dân:

Tuy nhiên, trồng bắp non không phải chỉ đơn giản là trồng bắp rồi thu hoạch lúc non là được, mà nó đòi hỏi phải tuân thủ theo một quy trình kỹ thuật riêng, kết hợp với giống bắp thích hợp mới cho ra sản phẩm bắp non vừa ngon vừa đẹp mẫu mã và đạt năng suất cao đúng quy cách phẩm chất với yêu cầu ăn tươi và chế biến đóng hộp.

Bắp là loại cây lương thực có tỷ lệ tinh bột, protein và lipid khá cao ở hột. Bắp nếp (Zea mays var. ceratira) được trồng phổ biến ở nước ta với các giống: bắp nếp Nù, bắp nếp Long Khánh, bắp nếp tím Ban Mê Thuột…Ở Vĩnh Long với bắp nếp Nù nổi tiếng được trồng nhiều ở huyện Bình Minh, Vũng Liêm, Trà Ôn,…