Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Kết quả nghiên cứu ương nuôi tôm hùm giống

Kết quả nghiên cứu ương nuôi tôm hùm giống
Ngày đăng: 22/08/2015

Nghề nuôi tôm hùm lồng phát triển dẫn đến nhu cầu cung cấp giống ngày càng cao. Tuy nhiên, ở nước ta, sản xuất giống nhân tạo tôm hùm vẫn chưa thành công vì thời gian biến thái ấu trùng quá dài dẫn đến nhiều rủi ro trong quá trình nghiên cứu, vì vậy nghề khai thác tôm hùm con ngoài tự nhiên vẫn phát triển.

Kết quả của việc ương nuôi tôm hùm con lên tôm hùm giống phục vụ nuôi tôm thương phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có khoảng thời gian lưu trữ giống sau khi khai thác, thức ăn, mật độ ương nuôi cũng như chế độ quản lý, chăm sóc. Ở nước ta hiện nay chưa có một công bố nào về quy trình công nghệ ương nuôi tôm hùm lồng. Hiện nay việc nuôi tôm hùm lồng hoàn toàn tự phát, người nuôi dựa vào kinh nghiệm là chính nên kết quả mang lại cũng khác nhau: tỷ lệ sống thường không ổn định (20 - 95%), tiềm ẩn mầm bệnh trong tôm ương.

Xuất phát từ thực tế đó, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đã nghiên cứu quy trình công nghệ ương nuôi tôm hùm lồng, trên cơ sở đó xây dựng mô hình ương nuôi tôm hùm giống đạt tỷ lệ sống cao và sạch một số bệnh thường gặp để đáp ứng đầy đủ nhu cầu con giống phục vụ nuôi tôm hùm lồng thương phẩm.

Nghiên cứu thời gian lưu giữ tôm hùm giống thích hợp sau khai thác cho ương nuôi được tiến hành trong 75 ngày tại vùng ương nuôi tôm hùm khu phố Phước Lý, Sông Cầu, Phú Yên, với con giống có chiều dài trung bình 6,7mm, khối lượng trung bình 0,27g, được thả nuôi ở mật độ 100 con/lồng 1m3, độ sâu 2m tính từ đáy lồng. Quá trình nuôi tôm thí nghiệm được kiểm tra hàng ngày, sau 15 ngày nuôi tôm được kiểm tra tỷ lệ sống, kích thước, khối lượng và được chuyển sang lồng nuôi mới.

Kết quả sau 75 ngày nuôi, chiều dài, khối lượng tôm tăng lên 15,84mm, 5,33g, tỷ lệ sống đạt 90,67% (đối với tôm hùm được nuôi sau 24 giờ khai thác), tăng 15,51mm và 5,09g, tỷ lệ sống đạt 80,33% (đối với tôm hùm được nuôi sau 48 giờ khai thác), tăng 15,27mm và 4,84g, tỷ lệ sống đạt 53,67% (đối với tôm hùm được nuôi sau 72 giờ khai thác).

Thí nghiệm ương nuôi tôm hùm giống tại chính vùng khai thác trong thời gian ngắn sau đó được chuyển đến ùng ương nuôi thích hợp, được tiến hành 10 ngày tại bán đảo Sơn Trà, phường Thọ Quang, Đà Nẵng. Sau đó, tôm hùm con được chuyển vào vùng ương nuôi tôm hùm thuộc khu phố Phước Lý, Sông Cầu, Phú Yên ương nuôi trong 65 ngày tiếp theo.

Tôm thí nghiệm được nuôi có chiều dài trung bình 6,68mm, khối lượng 0,27g, được thả với mật độ 100 con/lồng 1m3, độ sâu 2m tính từ đáy lồng, thức ăn từ nguồn giáp xác (lấy từ phần thịt cua, ghẹ nhỏ). sau 10 ngày ương nuôi tại Đà Nẵng, tôm đạt chiều dài 7,54mm, trọng lượng 0,35g, tỷ lệ sống 98,33%. Sau 65 ngày ngày ương nuôi tại Phú Yên, chiều dài đạt 15,91mm, khối lượng 5,36g, tỷ lệ sống 91,67%.

Như vậy, để đảm bảo ương nuôi tôm hùm giống có tỷ lệ sống cao thì thời gian lưu giữ tôm hùm trắng sau khai thác càng ngắn càng tốt: sau 75 ngày nuôi, tỷ lệ sống tôm hùm giống đạt 90,67% với nguồn tôm hùm giống sau 24 giờ lưu trữ, trong khi đó tỷ lệ sống chỉ đạt 53,76% với thời gian lưu trữ là 72 giờ. Ngoài ra, việc ương nuôi tôm hùm giống ngay tại vùng khai thác trong thời gian ngắn (10 ngày) cũng mang lại kết quả tốt cho việc ương nuôi tôm hùm giống sau này (tỷ lệ sống đạt 91,67% sau 75 ngày nuôi).


Có thể bạn quan tâm

Sầu riêng nhúng thuốc sự thật và nỗi oan Sầu riêng nhúng thuốc sự thật và nỗi oan

Sau một thời gian thông tin trái cây bị nhúng hóa chất cho mau chín và bảo quản được lâu tạm lắng xuống thì những ngày qua trên mạng xã hội, một loạt hình ảnh chụp cận cảnh trái sầu riêng ngâm trong thùng hóa chất màu vàng được share (chia sẻ) với tốc độ chóng mặt. Những hình ảnh này cùng với lời cảnh báo các công ty xuất khẩu trái cây của Trung Quốc đang sử dụng một loại hóa chất độc hại để làm chín các loại trái như sầu riêng, mít, chuối, xoài, táo… khiến người tiêu dùng vô cùng lo lắng.

18/08/2015
Hội thảo ứng dụng chế phẩm sinh học trên cây nho Hội thảo ứng dụng chế phẩm sinh học trên cây nho

Ngày 13-8, tại xã Nhơn Sơn, Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch (Bộ NN&PTNT) tổ chức Hội thảo đánh giá kết quả mô hình ứng dụng chế phẩm sinh học SRE&RL phòng, chống nấm mốc trên Nho giai đoạn trước và sau thu hoạch. Tham dự Hội thảo có đại diện Bộ Khoa học& Công nghệ, lãnh đạo các sở, ngành, địa phương, các nhóm liên kết trồng nho trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

18/08/2015
Cao Phong (Hòa Bình) phát triển cam VietGAP hướng ra thị trường lớn Cao Phong (Hòa Bình) phát triển cam VietGAP hướng ra thị trường lớn

Trong hành trình xây dựng Cam Cao Phong trở thành một thương hiệu có sức vươn mạnh mẽ ra thị trường lớn, chứng nhận VietGAP được coi là cột mốc quan trọng giúp nâng tầm giá trị của thương hiệu Cam Cao Phong. Đến thời điểm này, trong hàng nghìn ha cam đang được canh tác hiệu quả trên đất Cao Phong mới chỉ có gần 50 ha được chứng nhận VietGAP.

18/08/2015
Nâng cao chất lượng mãng cầu Xiêm Nâng cao chất lượng mãng cầu Xiêm

Cây mãng cầu Xiêm được xác định là một trong những loại cây trồng chủ lực của huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang. Hiện nay, địa phương đang quy hoạch mở rộng vùng chuyên canh, chuyển giao kỹ thuật trồng, hình thành các tổ hợp tác sản xuất mãng cầu Xiêm, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng thương hiệu mãng cầu Xiêm Tân Phú Đông trên thị trường.

18/08/2015
Trồng sắn bền vững trên đất đồi Trồng sắn bền vững trên đất đồi

Từ kết quả ứng dụng tiến bộ KHKT vào SX, mô hình canh tác sắn bền vững trên đất đồi đã được chuyển giao cho nông dân tỉnh Khánh Hòa thông qua dự án KH-CN giai đoạn 2013-2015…

18/08/2015