Kết quả nghiên cứu ương nuôi tôm hùm giống

Nghề nuôi tôm hùm lồng phát triển dẫn đến nhu cầu cung cấp giống ngày càng cao. Tuy nhiên, ở nước ta, sản xuất giống nhân tạo tôm hùm vẫn chưa thành công vì thời gian biến thái ấu trùng quá dài dẫn đến nhiều rủi ro trong quá trình nghiên cứu, vì vậy nghề khai thác tôm hùm con ngoài tự nhiên vẫn phát triển.
Kết quả của việc ương nuôi tôm hùm con lên tôm hùm giống phục vụ nuôi tôm thương phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có khoảng thời gian lưu trữ giống sau khi khai thác, thức ăn, mật độ ương nuôi cũng như chế độ quản lý, chăm sóc. Ở nước ta hiện nay chưa có một công bố nào về quy trình công nghệ ương nuôi tôm hùm lồng. Hiện nay việc nuôi tôm hùm lồng hoàn toàn tự phát, người nuôi dựa vào kinh nghiệm là chính nên kết quả mang lại cũng khác nhau: tỷ lệ sống thường không ổn định (20 - 95%), tiềm ẩn mầm bệnh trong tôm ương.
Xuất phát từ thực tế đó, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đã nghiên cứu quy trình công nghệ ương nuôi tôm hùm lồng, trên cơ sở đó xây dựng mô hình ương nuôi tôm hùm giống đạt tỷ lệ sống cao và sạch một số bệnh thường gặp để đáp ứng đầy đủ nhu cầu con giống phục vụ nuôi tôm hùm lồng thương phẩm.
Nghiên cứu thời gian lưu giữ tôm hùm giống thích hợp sau khai thác cho ương nuôi được tiến hành trong 75 ngày tại vùng ương nuôi tôm hùm khu phố Phước Lý, Sông Cầu, Phú Yên, với con giống có chiều dài trung bình 6,7mm, khối lượng trung bình 0,27g, được thả nuôi ở mật độ 100 con/lồng 1m3, độ sâu 2m tính từ đáy lồng. Quá trình nuôi tôm thí nghiệm được kiểm tra hàng ngày, sau 15 ngày nuôi tôm được kiểm tra tỷ lệ sống, kích thước, khối lượng và được chuyển sang lồng nuôi mới.
Kết quả sau 75 ngày nuôi, chiều dài, khối lượng tôm tăng lên 15,84mm, 5,33g, tỷ lệ sống đạt 90,67% (đối với tôm hùm được nuôi sau 24 giờ khai thác), tăng 15,51mm và 5,09g, tỷ lệ sống đạt 80,33% (đối với tôm hùm được nuôi sau 48 giờ khai thác), tăng 15,27mm và 4,84g, tỷ lệ sống đạt 53,67% (đối với tôm hùm được nuôi sau 72 giờ khai thác).
Thí nghiệm ương nuôi tôm hùm giống tại chính vùng khai thác trong thời gian ngắn sau đó được chuyển đến ùng ương nuôi thích hợp, được tiến hành 10 ngày tại bán đảo Sơn Trà, phường Thọ Quang, Đà Nẵng. Sau đó, tôm hùm con được chuyển vào vùng ương nuôi tôm hùm thuộc khu phố Phước Lý, Sông Cầu, Phú Yên ương nuôi trong 65 ngày tiếp theo.
Tôm thí nghiệm được nuôi có chiều dài trung bình 6,68mm, khối lượng 0,27g, được thả với mật độ 100 con/lồng 1m3, độ sâu 2m tính từ đáy lồng, thức ăn từ nguồn giáp xác (lấy từ phần thịt cua, ghẹ nhỏ). sau 10 ngày ương nuôi tại Đà Nẵng, tôm đạt chiều dài 7,54mm, trọng lượng 0,35g, tỷ lệ sống 98,33%. Sau 65 ngày ngày ương nuôi tại Phú Yên, chiều dài đạt 15,91mm, khối lượng 5,36g, tỷ lệ sống 91,67%.
Như vậy, để đảm bảo ương nuôi tôm hùm giống có tỷ lệ sống cao thì thời gian lưu giữ tôm hùm trắng sau khai thác càng ngắn càng tốt: sau 75 ngày nuôi, tỷ lệ sống tôm hùm giống đạt 90,67% với nguồn tôm hùm giống sau 24 giờ lưu trữ, trong khi đó tỷ lệ sống chỉ đạt 53,76% với thời gian lưu trữ là 72 giờ. Ngoài ra, việc ương nuôi tôm hùm giống ngay tại vùng khai thác trong thời gian ngắn (10 ngày) cũng mang lại kết quả tốt cho việc ương nuôi tôm hùm giống sau này (tỷ lệ sống đạt 91,67% sau 75 ngày nuôi).
Có thể bạn quan tâm

Các địa phương miền núi xác định phát triển kinh tế rừng đóng vai trò then chốt, tạo ra đòn bẩy để giảm nghèo bền vững. Tuy nhiên, dấu ấn phát triển kinh tế rừng vẫn chưa tương xứng với nguồn lực đất đai và bộc lộ một số bất lợi cần khắc phục.

Nhà máy sản xuất kêu khó khăn, lỗ; các siêu thị, cửa hàng bán lẻ kêu lãi không đáng kể; trong khi người tiêu dùng Việt Nam vẫn phải mua giá cao hơn nhiều nước trong khu vực, vậy vấn đề nằm ở đâu?

Vụ mùa năm nay, toàn tỉnh gieo cấy được trên 39 nghìn ha lúa, trong đó diện tích lúa mùa sớm chiếm khoảng 60%. Hiện nay, lúa mùa sớm đang trong giai đoạn chín sữa - chín sáp, lúa mùa trung giai đoạn làm đòng- trỗ bông, lúa mùa muộn giai đoạn cuối đẻ nhánh.

Khoảng 5 năm trở lại đây, việc chăn nuôi bò ở xã Văn Luông, huyện Tân Sơn có bước phát triển nhảy vọt, nhất là số lượng bò lai Sind. Từ năm 2009 trở về trước, tổng đàn bò của xã hàng năm chỉ ở mức trên dưới 300 con, chủ yếu là giống bò vàng, thấp bé, lượng thịt ít.

Làm ra hạt gạo là điều quen thuộc với người nông dân. Thế nhưng để sản xuất được “gạo sạch” là cả một quá trình không hề đơn giản. Việc tập đoàn Quế Lâm sản xuất thành công gạo hữu cơ đã mở ra một hướng đi mới cho nông dân tỉnh TT- Huế.