Hòa Vang (Đà Nẵng) Trồng Cỏ Nuôi Bò Thành Phong Trào

Với hiệu quả kinh tế thiết thực, trồng cỏ nuôi bò không còn là mô hình mà đã thành phong trào rộng khắp tại các xã miền núi huyện Hòa Vang. Phong trào này đã là cơ hội làm giàu cho nhiều nông hộ.
Người tiên phong mở ra hướng phát triển kinh tế này là ông Lê Minh ở thôn Đông Lâm, xã Hòa Phú. Cách đây dăm năm, nhờ thu nhập cao từ thả cá nước ngọt quy mô thâm canh, ông đầu tư mua hơn chục con bò về nuôi. Hồi đó, thức ăn cho bò chỉ là cây cỏ tự nhiên tại các gò đồi.
Sau ba năm, ông nhận thấy bò chậm phát triển, nguyên nhân do thiếu thức ăn. Không chần chừ, ông triển khai ngay việc trồng cỏ lấy thức ăn cho bò. Ban đầu chỉ vài ba sào, cứ thế mở rộng dần. Nay ông đã có tổng đàn bò gần 100 con và hơn 2 ha cỏ giống VA06.
Nói về hiệu quả của trồng cỏ nuôi bò, lão nông từng đạt danh hiệu Nông dân sản xuất giỏi cấp thành phố này cho biết: Đơn giản là bò khi cho ăn no, đủ chất dinh dưỡng, tăng trọng nhanh, sinh sản đều. Để bò tăng trọng, không cách nào tốt hơn là trồng cỏ chủ động nguồn thức ăn. Hằng ngày, bò vẫn được chăn thả bình thường. Chiều tối, cắt cỏ loại giàu chất dinh dưỡng cho ăn thêm.
Từ hiệu quả kinh tế thiết thực này, đầu năm 2014, Trung tâm Khuyến ngư nông lâm thành phố phối hợp với Phòng NN&PTNT huyện Hòa Vang triển khai chương trình trồng cỏ nuôi bò. 10 hộ ở xã Hòa Phú được tập huấn kỹ thuật về trồng cỏ, chăn nuôi, được hỗ trợ giống cỏ VA06. Xã Hòa Phú thành lập Tổ hợp tác nuôi bò gồm 36 thành viên, tổng đàn 147 con.
Ông Nguyễn Ngọc Hải, Chủ tịch UBND xã Hòa Phú cho biết: Trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp của xã hiện nay, nuôi bò từ nguồn cỏ trồng đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Hiện tại, hơn 10 hộ có đàn bò từ 15 con trở lên, nhiều hộ có từ 5 đến 7 con. Tổng đàn bò của xã tăng từ 1.200 con cuối năm ngoái lên 1.800 con hiện nay. Diện tích trồng cỏ cũng đã mở rộng lên 7 ha.
Xã Hòa Phú thời điểm này, nhiều người tận dụng tối đa đất đai hiện có để trồng cỏ VA06. Ông Nguyễn Bình, ở thôn Hội Phước, chỉ có 2 con bò nhưng trồng 2 sào cỏ. Ông cho biết: Hộ nuôi nhiều có người chăn thả, hộ nuôi ít trồng cỏ cho ăn là tiện nhất. Ở thôn Nam Yên, xã Hòa Bắc đến đâu cũng dễ nhận thấy phong trào trồng cỏ nuôi bò của bà con nông dân. Nhà bà Đặng Thị Trung có mấy vạt cỏ, nuôi 6 con trâu và 9 con bò.
Tính ra, không hoạt động kinh tế nào ở vùng này cao bằng nuôi trâu bò. Con bê chỉ 1 năm có giá trên dưới 20 triệu đồng. Nuôi trâu bò đàn, năm có 6-7 con đẻ là có nguồn thu không nhỏ.
Trồng cỏ nuôi bò đã và đang là hoạt động kinh tế khả thi ở một số xã của huyện Hòa Vang. Từ hiệu quả thiết thực này, Phòng NN&PTNT và các cơ quan liên quan cần triển khai dự án nuôi bò thịt, bò sinh sản và mở rộng ra địa bàn các xã khác. Có như vậy mới tăng tổng đàn bò của địa phương, tạo cơ hội phát triển kinh tế cho nông hộ. Đây cũng là một trong những giải pháp xây dựng nông thôn mới hiệu quả tại nông thôn Hòa Vang hiện nay. Bởi ở Đà Nẵng, để đáp ứng nhu cầu giết mổ hằng ngày, hơn 90% bò thịt phải mua từ các địa phương khác về.
Có thể bạn quan tâm

Mặc dù có thời điểm do giá chè xuống thấp, việc canh tác gặp khó khăn, nhiều hộ gia đình đã chặt bỏ cây chè và chuyển sang các loại cây trồng khác, nhưng từ sau năm 2001 đến nay, do nhu cầu tiêu thụ chè trên thị trường tăng mạnh, nghề trồng chè ở Ngọc Đồng cũng có bước phát triển mới.

Ông Trần Văn Cang, ngụ xã Tân Hội Đông (Châu Thành) được tiếng khen cần cù, chịu khó, say mê lao động và ham học. Ông đã mạnh dạn chuyển đổi các loại cây trồng kém hiệu quả sang trồng dừa xiêm lục mang lại hiệu quả kinh tế cao, từng bước đưa kinh tế gia đình đi vào ổn định.

Các địa phương miền núi xác định phát triển kinh tế rừng đóng vai trò then chốt, tạo ra đòn bẩy để giảm nghèo bền vững. Tuy nhiên, dấu ấn phát triển kinh tế rừng vẫn chưa tương xứng với nguồn lực đất đai và bộc lộ một số bất lợi cần khắc phục.

Nhà máy sản xuất kêu khó khăn, lỗ; các siêu thị, cửa hàng bán lẻ kêu lãi không đáng kể; trong khi người tiêu dùng Việt Nam vẫn phải mua giá cao hơn nhiều nước trong khu vực, vậy vấn đề nằm ở đâu?

Vụ mùa năm nay, toàn tỉnh gieo cấy được trên 39 nghìn ha lúa, trong đó diện tích lúa mùa sớm chiếm khoảng 60%. Hiện nay, lúa mùa sớm đang trong giai đoạn chín sữa - chín sáp, lúa mùa trung giai đoạn làm đòng- trỗ bông, lúa mùa muộn giai đoạn cuối đẻ nhánh.