Hoà Bình Phát Triển Vùng Sản Xuất Cam An Toàn, Bền Vững

Theo quy hoạch đến năm 2020, huyện Kim Bôi sẽ có 677 ha cam, tập trung chủ yếu trên địa bàn 4 xã Tú Sơn, Nam Thượng, Sào Báy và Mỵ Hòa. Ảnh: chăm sóc diện tích cam được quy hoạch trồng mới trên địa bàn xã Nam Thượng (Kim Bôi).
Hình thành các vùng sản xuất cam an toàn với quy mô ngày càng lớn, từng bước đưa nghề sản xuất cam tại các vùng quy hoạch trở thành một nghề có thế mạnh trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hoà Bình, tạo thêm nhiều việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động...
Đó là những kết quả quan trọng mà ngành NN&PTNT dự kiến sẽ đạt được khi thực hiện thành công việc phát triển sản xuất cam an toàn tập trung trên địa bàn tỉnh.
Theo Sở NN&PTNT, với tổng diện tích cam và cây có múi đạt khoảng 1.500 ha, sản lượng đạt 25.000 tấn/năm, tỉnh đang đứng đầu khu vực trung du và miền núi Tây Bắc về diện tích cây có múi. Trong đó, Cao Phong là huyện có diện tích cam lớn nhất tỉnh với trên 900 ha, giá trị kinh tế bình quân đạt khoảng 600 triệu đồng/ha. Cam là cây có múi chủ lực, hiện chiếm trên 72,5% cơ cấu cây có múi của tỉnh.
Trên địa bàn tỉnh đã hình thành được một số vùng sản xuất cam hàng hóa tập trung quy mô lớn, nổi bật nhất là huyện Cao Phong và một số xã của huyện Kim Bôi, Lạc Thủy. Những năm gần đây, các giống cam có năng suất cao, chất lượng tốt đã được đưa vào trồng thay thế dần những giống cũ.
Tỉnh cơ bản đã hoàn thiện việc xây dựng nhãn hiệu tập thể cho cây cam Hòa Bình và xây dựng chỉ dẫn địa lý cho cam Cao Phong, đồng thời đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại để hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm. Những kết quả này cho thấy, cây cam đang được đánh giá là loại cây trồng mũi nhọn để tỉnh ta đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng có giá trị kinh tế cao, SXHH quy mô lớn.
Trao đổi về định hướng phát triển sản xuất cam trên địa bàn tỉnh những năm tới, đồng chí Hoàng Văn Tứ, Giám đốc Sở NN&PTNT cho biết: tỉnh có 5 thuận lợi lớn để đẩy mạnh phát triển sản xuất cam. Thứ nhất, cây cam đã khẳng định được giá trị kinh tế cao vượt trội so với các cây trồng khác, trên địa bàn tỉnh đã hình thành được các vùng sản xuất cam hàng hóa, do vậy, đây sẽ là động lực rất lớn thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất cam.
Thứ hai, tiềm năng về đất đai và lao động của tỉnh tương đối dồi dào, phù hợp cho việc phát triển sản xuất tập trung quy mô lớn. Thứ ba, tỉnh có hệ thống giao thông với hai trục quốc lộ 6 và đường Hồ Chí Minh chạy qua các vùng sản xuất cam, rất thuận lợi cho việc lưu thông, tiêu thụ sản phẩm, thêm vào đó lại có vị trí tiếp giáp với thành phố Hà Nội, vốn là thị trường tiêu thụ lớn cho nông sản các địa phương.
Thứ tư, điều kiện nguồn nước tưới khá thuận tiện và dồi dào với hệ thống các hồ chứa, sông, suối trên địa bàn tỉnh đủ đáp ứng nhu cầu tưới tiêu của SXHH quy mô lớn. Thứ năm, các cấp chính quyền, đoàn thể và nhân dân có sự đồng thuận cao đối với quy hoạch phát triển sản xuất cam và cây có múi trên địa bàn tỉnh.
Quan điểm quy hoạch phát triển cam an toàn tập trung của tỉnh là: quy hoạch phát triển theo hướng ổn định, lâu dài với quy mô lớn, tập trung, chuyên canh trên cơ sở khai thác các lợi thế về điều kiện tự nhiên, KT-XH và thị trường.
Nhằm khai thác tiềm năng phát triển của cây cam, đồng thời nâng cao vai trò quản lý Nhà nước trong sản xuất cam theo hướng bền vững, cuối năm 2013, UBND tỉnh đã phê duyệt “Quy hoạch vùng sản xuất cam an toàn tập trung trên địa bàn tỉnh Hòa Bình đến năm 2002”.
Mục tiêu chung của quy hoạch là hình thành được các vùng sản xuất cam an toàn với quy mô ngày càng lớn, từng bước nâng cao chất lượng, sản lượng để mở rộng thị trường tiêu thụ và hướng tới xuất khẩu; góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng SXHH, từng bước đưa nghề sản xuất cam tại các vùng quy hoạch trở thành một nghề có thế mạnh trong SXNN của tỉnh; từng bước xây dựng được vùng cam phát triển ổn định, lâu dài, góp phần nâng cao giá trị kinh tế trên đơn vị diện tích, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động, góp phần bảo vệ sức khỏe cho người sản xuất, người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái.
Theo quy hoạch đến năm 2015, toàn tỉnh sẽ có khoảng 3.094 ha cam an toàn tập trung, sản lượng đạt khoảng 60.000 - 70.000 tấn/năm, từng bước tăng hiệu quả kinh tế của sản xuất cam theo hướng chuyển dịch cơ cấu diện tích với 20% diện tích cam chín sớm, 45% diện tích cam chín chính vụ và 35% diện tích cam chín muộn.
Dự kiến đến năm 2020, tổng diện tích cam quy hoạch đạt 5.084 ha, sản lượng đạt khoảng 90.000 - 100.000 tấn/năm, phấn đấu 40% sản lượng cam được quản lý theo chuỗi khép kín từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm, từng bước tạo dựng thương hiệu cam an toàn và tiến tới xuất khẩu.
Đặc biệt, dự kiến 100% diện tích sản xuất cam của vùng quy hoạch sẽ đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn và có thương hiệu bền vững.
Có thể bạn quan tâm

Năm 2011, anh Huỳnh Văn Thành, 59 tuổi đầu tư hơn 1 tỉ đồng xây dựng trang trại tại xã Phước Thắng (huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận) nuôi heo siêu nạc.

Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản lo rằng khó khăn về thị trường cùng với dịch bệnh thủy sản chưa có dấu hiệu dừng lại khiến nguồn nguyên liệu cho năm 2013 không ổn định, qua đó, ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Nhưng ông Phạm Anh Tuấn, Phó tổng cục trưởng Tổng cục thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) lại cho rằng những vấn đề này sẽ được giải quyết trong năm nay.

Hoạt động khai thác tôm hùm con, mà chủ yếu là nghề bẫy bắt để phục vụ nuôi trồng thủy sản trong thời gian qua đã phát triển mạnh tại vùng ven biển Bình Thuận. Việc này đã gây ảnh hưởng đến nguồn lợi tôm hùm trong tự nhiên. Đồng thời việc giăng mắc ngư lưới cụ cố định để bẫy bắt tôm hùm con tràn lan trong các khu vực ven bờ đã cản trở hoạt động đi lại của tàu thuyền cũng như hoạt động tắm biển, vui chơi, giải trí tại các khu du lịch ven biển, gây tranh chấp ngư trường đánh bắt, làm ảnh hưởng an ninh trật tự vùng ven biển.

Bắt đầu từ ngày 1/1/2013, hợp đồng bao tiêu sản phẩm sữa tươi giữa Công ty cổ phần Sữa Đà Lạt (Dalatmilk) với 54 hộ nông dân huyện Đức Trọng lần lượt được triển khai trong thời hạn 3 năm. Đây là hợp đồng mở rộng sau thành công của một liên minh thuộc hợp phần Dự án Cạnh tranh nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng thực hiện từ năm 2010 đến năm 2012.

Chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam chỉ mới đáp ứng 25% nhu cầu thị trường nhưng người nông dân chăn nuôi bò sữa lại đang có xu hướng chuyển sang những ngành kinh doanh khác do ở những khu vực chăn nuôi bò sữa chủ yếu hiện nay, quỹ đất dành cho chăn nuôi không còn nhiều lại đang có xu hướng đô thị hóa, dẫn đến lợi nhuận thu được từ việc sử dụng đất để trồng cỏ nuôi bò dần dần sẽ không hấp dẫn bằng kinh doanh các ngành nghề khác…