Hiệu Quả Bước Đầu Từ Mô Hình Nuôi Cá Chiên Trong Lồng

Với lợi thế có nhiều sông ngòi, diện tích hồ chứa khá lớn nên nghề nuôi trồng thủy sản trên hồ chứa ở Nghệ An đã và đang phát triển, góp phần không nhỏ giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống người dân vùng nông thôn, thúc đẩy kinh tế các xã vùng lòng hồ, ven sông phát triển.
Nhằm khai thác hết tiềm năng phát triển nuôi thủy sản trên các hồ đập, sông suối, trong 2 năm 2012 và 2013, Trung tâm Giống thủy sản Nghệ An đã thực hiện đề tài "Ứng dụng khoa học công nghệ xây dụng mô hình nuôi thương phẩm cá chiên (bagarius yarrelli, Sykes 1839) trong lồng bè trên thủy vực lớn tại Nghệ An" tại hồ Khe Đá - xã Nghĩa Đức - huyện Nghĩa Đàn với quy mô 10 lồng nuôi có thể tích 100m3, số lượng cá thả 3.000 con (198kg).
Sau 20 tháng nuôi, cá đạt kích cỡ trung bình 1.280 g/con, tỷ lệ sống đạt 72%, hệ số chuyển đổi thức ăn của cá chiên nuôi trong lồng là 6.7. Năng suất đạt 27.65 kg/m3 lồng. Với giá bán tại thời điểm thu hoạch là 250.000 - 350.000 đồng/kg, tổng thu đạt 691.520.000 đồng.
Sau khi trừ chi phí, lợi nhuận đạt 216.740.000 đồng/100m3 lồng nuôi. Mo hình đạt được hiệu quả kinh tế cao là do hệ thống lồng bè được thiết kế phù hợp, đảm bảo, thức ăn là nguồn cá dầu được khai thác trực tiếp từ hồ Khe Đá, trong quá trình nuôi cá được chăm sóc, phòng và trị bệnh kịp thời.
Cá chiên là một loài cá hoang dã sống trên các sông, suối; có thịt thơm ngon và có giá trị kinh tế cao. Hiện nay loài cá này đang bị khai thác quá mức dẫn đến ngày càng cạn kiệt, vì vậy giá thành của cá chiên ngày một cao. Bên cạnh đó, nguồn cá giống ngày càng cạn kiệt do hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên nên chất lượng nguồn cá giống kém dần và sẽ khan hiếm trong vài năm nữa.
Để nghề nuôi cá chiên ngày càng phát triển, người nuôi mong muốn được Nhà nước hỗ trợ tập huấn khoa học kỹ thuật, nguồn vốn, các cơ quan chuyên môn nghiên cứu để chủ động được nguồn cá chiên giống, thay thế thức ăn cá tạp bằng thức ăn công nghiệp để hạn chế ô nhiễm môi trường.
Nuôi cá Chiên không chỉ là gìn giữ được giống thủy sản quý hiếm mà còn là cơ hội để duy trì, nhân rộng, phát triển mô hình nuôi thủy sản mới, cho hiệu quả kinh tế cao, mở ra hướng phát triển kinh tế, giúp người dân địa phương vươn lên thoát nghèo và làm giàu.
Có thể bạn quan tâm

Theo anh Trung thì trước đây, do diện tích lớn nên nhu cầu giống hoa cho mỗi vụ trồng rất nhiều, cứ mỗi lần vào vụ lại xuất hiện tình trạng khan hiếm giống. Gia đình phải tất bật liên hệ, tìm kiếm nguồn cung khắp nơi và mua giống với giá cao. Cũng vì thế nên giống hoa nhiều lúc không đảm bảo chất lượng, cây trồng kém phát triển, củ không nảy mầm tốt. Gia đình luôn rơi vào tình thế bị động trong việc tìm nguồn giống…

Ngày 26/11, Trạm Khuyến nông – Khuyến ngư huyện Đắk Song tổ chức hội thảo đầu bờ, đánh giá mô hình trình diễn sản xuất rau cải bẹ xanh an toàn tại hộ bà Trần Thị Thu ở thôn 8, xã Thuận Hà với quy mô 1.000 m2.

Những ngày này, người dân thôn Ngọc Kinh Đông (Đại Hồng, Đại Lộc) đứng ngồi không yên bởi hàng chục héc ta hoa màu ven sông có nguy cơ héo rũ. Nắng hè rát bỏng, nguồn nước khô kiệt đã khiến những cánh đồng bắp, đậu xanh, ớt, dưa… ven sông héo rũ, còi cọc vì thiếu nước. Thăm đồng khi đã xế chiều, ông Trần Ngọc Bích ngao ngán: “Hai sào ruộng đã bỏ hoang, nay tới cả 2 sào màu của gia đình cũng bị chết héo.

Khí hậu huyện Ia Grai được chia ra làm 2 vùng khá rõ rệt. Các xã phía Đông có độ cao trên 600 mét so với mực nước biển, phù hợp với cây cà phê. Vùng phía Tây thấp hơn, nhiệt độ nóng hơn, phù hợp với cây cao su và điều. Đến nay, sự phát triển mạnh mẽ của các loại cây công nghiệp đã góp phần rất lớn trong sự phát triển kinh tế-xã hội của huyện biên giới này.

Vì vậy, năng suất lao động không cao, chất lượng chè thấp, lượng tiêu thụ sản phẩm ra thị trường còn hạn chế. Chè của HTX sản xuất ra chủ yếu là chè khô, đóng bao bì không có nhãn hiệu hàng hóa, thương hiệu sản phẩm, nên chỉ bán được ở địa bàn trong huyện hoặc các mối lái quen biết.