Hiệu lực của phân bón Văn Điển trong thâm canh hồ tiêu

Lân nung chảy là nguồn dinh dưỡng quý
Nông dân Tây Nguyên bón lân cho cây hồ tiêu kinh doanh cao hơn so với nhu cầu của cây và các khuyến cáo khoa học ở cùng một mức năng suất. Khi năng suất hồ tiêu cao thì nông dân sử dụng lân bón cho hồ tiêu cao hơn so với năng suất thấp.
Hiệu suất sử dụng phân lân đối với cây hồ tiêu kinh doanh ở tỉnh Gia Lai là cao nhất, đạt 24,9kg hạt khô/kg P2O5; thấp nhất là ở Đăk Nông đạt 12,6kg hạt khô/kg P2O5; Gia Lai đạt 15,kg hạt khô/kg P2O5, như vậy để đạt >4 tấn hạt tiêu khô/ha liều lượng hiệu quả trung bình hàng năm bà con chỉ nên bón 200kg lân nguyên chất là đủ (P2O5)/ha (1kg lân nguyên chất = 6kg lân nung chảy, tương đương với 1,2 tấn lân nung chảy Văn Điển).
Cùng với một mức năng suất đạt được thì nông dân ở Đăk Lăk có xu hướng sử dụng phân lân bón cho cây hồ tiêu tương đối hợp lý (khoảng 200kg P2O5/ha cho năng suất > 4 tấn hạt khô/ha). Ở Gia Lai, nông dân bón lân cho hồ tiêu kinh doanh là cao nhất; trung bình vườn tiêu năng suất >4 tấn hạt/ha bón 457kg P2O5/ha; đối với vườn đạt năng suất thấp hơn hoặc bằng 4 tấn hạt/ha cũng bón ở mức 343kg P2O5/ha.
Nghiên cứu cho thấy, hiệu suất sử dụng phân lân đối với cây hồ tiêu kinh doanh ở tỉnh Gia Lai là cao nhất, đạt 24,9 kg hạt khô/kg P2O5 do năng suất hồ tiêu đạt được là rất cao, trung bình 7,2 tấn hạt/ha mặc dù lượng lân bón cho tiêu cũng rất cao; thấp nhất là ở Đăk Nông đạt 12,6kg hạt khô/kg P2O5; Gia Lai đạt 15,4 kg hạt khô/kg P2O5. Tính trung bình, Lân Văn Điển cho hiệu suất 18,1 cao hơn lân khác 17,2.
Bón lân nung chảy Văn Điển thì hiệu suất sử dụng phân lân có xu hướng cao hơn so với các dạng lân khác), nguyên nhân của vấn đề này do trong lân nung chảy ngoài yếu tố dinh dưỡng lân còn có chứa rất giàu các oxit kim loại kiềm thổ như can xi, ma giê, silic oxit đóng vai trò vừa cung cấp thêm dinh dưỡng trung lượng, vừa góp phần cải thiện chất lượng đất do bổ sung thêm Ca 2+ và Mg 2+ làm tăng độ màu mỡ của đất, có xu hướng cải thiện độ chua và các cation trao đổi Ca 2+ và Mg 2+ trong đất so với bón các dạng lân khác và đây là cơ sở cho việc cải thiện được khả năng trao đổi cation CEC hiệu dụng trong đất, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón.
Kết luận và khuyến cáo
- Nông dân sử dụng lân bón cho cây hồ tiêu kinh doanh ở Tây Nguyên cao hơn nhiều so với nhu cầu và khuyến cáo, bà con chỉ nên dùng 1.200kg/ha là vừa đủ.
- Tỷ lệ hộ nông dân sử dụng lân nung chảy Văn Điển bón cho cây hồ tiêu kinh doanh khá cao, đạt trung bình 72,0%.
- Hiệu suất sử dụng phân lân đối với cây hồ tiêu kinh doanh ở tỉnh Gia Lai là cao nhất; thấp nhất là ở Đăk Nông.
- Bón lân nung chảy Văn Điển thì hiệu suất sử dụng phân lân có xu hướng cao hơn so với các dạng lân khác.
- Sử dụng lân nung chảy Văn Điển có xu hướng cải thiện độ chua và các cation trao đổi Ca 2+ và Mg 2+ trong đất so với bón các dạng lân khác.
Có thể bạn quan tâm

Một cơ sở sản xuất phôi nấm công suất lớn, đầu tư quy mô, bài bản, mỗi tháng cung cấp hàng trăm ngàn phôi nấm tai mèo cho nông dân. Đó là cơ sở nấm của hai ông chủ rất trẻ đặt tại thôn K’Long, xã Hiệp An, huyện Đức Trọng. Không chỉ với nấm tai mèo, cơ sở còn đang chinh phục thêm nấm linh chi Đà Lạt với mục tiêu đưa linh chi Đà Lạt vào sản xuất rộng rãi.

Chi cục Bảo vệ thực vật Tây Ninh cho biết, vụ Đông xuân 2013 – 2014, toàn tỉnh xuống giống được 22.145 ha mì tại 8 huyện: Tân Châu, Tân Biên, Châu Thành, Dương Minh Châu, Trảng Bàng, Gò Dầu, Bến Cầu, Hòa Thành và thành phố Tây Ninh.

Khi đặt chân đến bãi cát biển hoang hoá của xã Thạch, Thạch Hà - Hà Tĩnh, chúng tôi ngỡ ngàng có hơn 30 ha cây trồng xanh ngút ngàn giữa mênh mông cát trắng.

1 năm trở lại đây, xuất hiện nhiều nhóm người ở các tỉnh phía Bắc vào miền Trung tìm mua cây huỳnh đàn có từ 5 đến 7 năm trở lên với giá hàng chục triệu đồng/cây. Có điều lạ là họ chọn mua cây rất gắt gao, thậm chí cả một huyện chỉ mua một vài cây. Trước khi quyết định mua, họ khoan vào thân cây kiểm tra đường kính, chất lượng lõi. Thực trạng trên khiến nhiều người nghi ngờ, liệu đây có phải chiêu “nhử mồi”, sau đó bán cây giống với giá cao.

Với sản lượng đưa ra thị trường khoảng 35.000 tấn bưởi/năm, sau khi trừ các khoản chi phí công chăm sóc, phân bón, thuốc trừ sâu… nông dân có thu nhập bình quân khoảng 150 triệu đồng/ha/năm. Đặc biệt, nhiều hộ canh tác hiệu quả có thu nhập từ 250- 300 triệu đồng/ha/năm.