Hạn Chế Tôm Càng Xanh Ăn Thịt Lẫn Nhau

Tôm càng xanh (TCX) có đặc điểm sinh học là lột xác nhiều lần trong chu kỳ sống để tăng trưởng và đặc tính hay ăn thịt lẫn nhau khi mới lột xác, ảnh hưởng tỷ lệ sống của tôm nuôi thương phẩm. Việc áp dụng tốt một số biện pháp trên vào quá trình nuôi TCX sẽ góp phần cho vụ nuôi hiệu quả hơn. Để giảm hiện tượng tôm ăn lẫn nhau, một số biện pháp khuyến cáo đưa ra như sau:
Do là loài ăn tạp thiên về động vật nên TCX đòi hỏi thức ăn có hàm lượng đạm cao và phù hợp từng giai đoạn phát triển. Trong giai đoạn ương, tôm giống còn nhỏ, nhu cầu dinh dưỡng cao. Ngoài thức ăn tự nhiên, sử dụng thức ăn công nghiệp (CN) có hàm lượng đạm từ 35 - 40%, cho ăn 3 – 4 lần/ngày.
Khi tôm lớn hơn 10 g/con, dùng thức ăn CN từ 20 – 30% đạm, cho ăn 2 – 3 lần/ngày, kết hợp luân phiên với thức ăn tươi sống. (Kỹ thuật nuôi TCX trong ruộng lúa, PGs. TS Dương Nhật Long, Khoa Thủy Sản, Trường Đại học Cần Thơ).
Khi cho tôm ăn thức ăn đầy đủ về số lượng và chất lượng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng cho tôm, chu kỳ lột xác tương đối đồng loạt, hạn chế hiện tượng ăn thịt lẫn nhau.
Trong quá trình nuôi, khi cho tôm ăn, nên rãi thức ăn đều khắp ao (ruộng nuôi), tránh hiện tượng tôm khi đói di chuyển kiếm mồi, ăn thịt con mới lột xác. Theo thực tế nuôi thử nghiệm, khi cho tôm ăn một chỗ, hiện tượng ăn thịt lẫn nhau nhiều hơn cho tôm ăn đều khắp ao.
Việc thả chà trong ao làm nơi trú ẩn cho tôm lột xác (sau 4 - 5 giờ vỏ tôm mới cứng hẳn), tăng tỷ lệ sống tôm nuôi do giảm hiện tượng ăn nhau. Chà được chất thành đống hay bó, số lượng bó chà tùy theo mật độ tôm thả nuôi và thường chất những nơi tôm tập trung lột xác như gần mé bờ, khu vực cấp nước. Nên ngâm chà tươi trước khi sử dụng và hạn chế dùng chà từ cây có tinh dầu (tràm, bạch đàn...), tránh ảnh hưởng xấu môi trường nước và tôm nuôi.
Ngoài ra, việc quản lý môi trường nuôi kết hợp chế độ thay nước chủ động theo chu kỳ lột xác của TCX, kích thích tôm lột xác đồng loạt cũng là biện pháp tăng tỷ lệ sống tôm nuôi.
Có thể bạn quan tâm

Tôm càng Hồ Tây còn gọi là tôm xanh tên khoa học là Macrobrachium nippovensis phân bố rộng ở sông, suối, ao, hồ chứa, ruộng nước, kênh mương. Tuy không lớn nhưng thịt thơm ngon, giá trị kinh tế cao. Gần đây ở Trung Quốc giá tôm này còn cao hơn tôm càng xanh. Ở Hồ Tây (Hà Nội) sản lượng đạt 30 – 40 tấn (1965).

Nhiệt độ thích hợp cho tôm càng xanh sinh trưởng và phát triển 22 – 230C, thích hợp nhất là 28 – 310C. Giới hạn nhiệt độ là 14 – 400C, mùa vụ nuôi tôm càng xanh ở miền Bắc thích hợp nhất là từ tháng 4 đến tháng 11 (dương lịch). Mùa đông ở miền Bắc nước ta thường kéo dài 4 – 5 tháng, nhiệt độ xuống thấp không những ảnh hưởng lớn đến những loài cá chịu lạnh kém (cá rô phi, cá chim trắng) mà còn ảnh hưởng nhiều đến sự tồn tại và sinh trưởng, phát triển của tôm càng xanh.

Tại xã Mỹ Hòa Hưng (TP.Long Xuyên), Sở Khoa học và Công nghệ An Giang vừa nghiệm thu mô hình dự án “Thực nghiệm xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh thương phẩm trong ao đất ở tỉnh An Giang”, do Tiến sĩ Dương Nhựt Long, Trường đại học Cần Thơ làm chủ nhiệm.

Tôm càng xanh là đối tượng thủy sản nước ngọt có giá trị kinh tế cao, được nuôi nhiều nước trên thế giới. Ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), các mô hình nuôi tôm càng xanh trong mương vườn, ruộng lúa, ao hồ...ngày càng phát triển. Trở ngại lớn nhất đối với các nông hộ khi nuôi tôm thịt từ giống nhân tạo mua từ các cơ sở ương là về chất lượng ( kích cỡ không đồng đều) và giá tôm giống cao (chiếm ³ 30% chi phí sản xuất).

Tôm Càng nước ngọt phân bố khắp các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới trên thế giới. Hiện nay được biết có trên 100 loài, trong đó hơn một phần tư số này có ở châu Mỹ.