Giải pháp nào cho vụ hè thu?

Liên tục khó khăn
Trên vùng đất phèn Tân Tuyến (Tri Tôn - An Giang), nông dân Nguyễn Thành An (thường gọi hai Tân), là người rất thành công với cây lúa Nhật. Tổ hợp tác sản xuất lúa Nhật xã Tân Tuyến do ông làm Tổ trưởng hiện đã thu hút được 18 thành viên với diện tích liên kết lên đến 500 héc-ta. So với nông dân sản xuất lúa hàng hóa bên ngoài, những người trồng lúa Nhật cầm chắc lợi nhuận cao hơn, bởi đã ký hợp đồng liên kết với doanh nghiệp, thỏa thuận giá bán từ đầu vụ. Tuy nhiên, khi nhắc đến vụ lúa hè thu, nông dân hiện canh tác 1.000 công đất này vẫn tỏ ra ngán ngẫm. “Dù đã có chủ trương sản xuất 3 năm 8 vụ ở các vùng đê bao nhưng do nông dân chưa đồng thuận, thống nhất nên nhiều vùng vẫn canh tác liên tục. Theo tôi, cần phải quyết liệt thực hiện 3 năm 8 vụ hoặc 4 năm 11 vụ để ít nhất phải xả lũ vào ruộng, cho đất được nghỉ ngơi một lần sau 3 – 4 năm canh tác” – hai Tân đề nghị.
Nếu chỉ tính đơn thuần về lợi nhuận, việc hợp tác trồng lúa Nhật vụ hè thu vẫn có lời nhưng thiệt hại về lâu dài. “Chi phí sản xuất vụ đông xuân khoảng 3.000 – 3.500 đồng/kg nhưng vụ hè thu thì đội lên 3.500 – 4.000 đồng/kg. Do đất canh tác liên tục nên độ màu mỡ giảm nhiều, muốn trồng lúa đạt năng suất phải sạ phân, xịt thuốc nhiều hơn. Nếu như 10 năm trước, mỗi công tầm cắt (gần 1.300m2) lúa thường chỉ rải tối đa 50kg phân thì nay tăng lên hơn 70kg, riêng đối với lúa Nhật phải tăng lên từ 110 kg/công. Nếu rải thiếu phân, nhìn cây lúa èo uột thấy rõ” - chú hai Tân chia sẻ.
Chi phí đội lên gần 4.000 đồng/kg trong vụ hè thu, đối với những nông dân trong Tổ hợp tác sản xuất lúa Nhật xã Tân Tuyến còn có ăn bởi giá hợp đồng thu mua hiện nay khoảng 6.000 đồng/kg (lúa tươi) nhưng với nông dân tự canh tác thông thường, giá lúa hàng hóa hiện nay từ 4.200 đồng/kg (giống IR50404) đến 4.600 đồng/kg (giống hạt dài), lợi nhuận rất hẩm hiu. “Vụ đông xuân còn canh tác được 1 tấn/công tầm cắt nhưng vụ hè thu làm giỏi lắm cũng chỉ 800 kg/công. Bỏ công suốt 3 tháng ròng, mỗi kg lúa chỉ lời có 300 – 400 đồng, 1 công đất lời chưa tới 300.000 đồng thì sao sống nổi. Đối với người thuê đất hơn 1 triệu đồng/công càng lỗ nặng” – nông dân Trần Văn Minh, xã Phú Thuận (Thoại Sơn), than.
Phải quyết liệt chuyển đổi
Được mệnh danh là “vua lúa” ở vùng kinh tế mới Lương An Trà (Tri Tôn) nhưng nông dân Nguyễn Lợi Đức (sáu Đức) cũng không ủng hộ vụ lúa hè thu. “Lúc trước còn có khái niệm “mùa giáp hạt” bởi lúa được sản xuất theo thời vụ, sản lượng không nhiều nhưng bây giờ thì quanh năm đều có thu hoạch lúa. Nông dân cứ lo “đâm đầu xuống đất” trồng lúa trong khi xuất khẩu lúa của Việt Nam gặp khó khăn, bị cạnh tranh ngay cả ở những nước láng giềng như Campuchia, Lào, Myanmar… Giá lúa thấp mà sản xuất càng nhiều thì càng khó bán” – sáu Đức phân tích.
Bên cạnh sản xuất dư thừa, vấn đề sâu bệnh, dịch hại được dịp tấn công khi sản xuất liên tục cũng là mối lo của nông dân. “Vụ hè thu này, diện tích lúa giống bị chuột, ốc bưu vàng cắn phá hơn 30 héc-ta, tôi phải thuê cấy giặm trên 100 triệu đồng. Riêng thuốc ốc phải thực hiện 3 – 4 đợt, chi phí 20.000 – 30.000 đồng/công nhưng vẫn không diệt hết. Cứ cái đà sản xuất này thì chính việc thuốc ốc của nông dân sẽ càng giết hại những loài sinh vật khác” – sáu Đức lo lắng.
Câu chuyện sản xuất vụ lúa hè thu khó khăn đã được đề cập cả chục năm nay nhưng vẫn chưa có hướng giải quyết. Nhiều nhà khoa học đề nghị phải chuyển vụ lúa hè thu sang các loại hoa màu khác hoặc nếu sản xuất vụ hè thu thì bỏ vụ thu đông để xả lũ tự nhiên, lấy lại phù sa cho đất và cắt đứt mầm bệnh. Tuy nhiên, bao năm qua, vụ hè thu vẫn cứ toàn lúa là lúa và vụ thu đông cũng rất ít nơi dừng sản xuất để xả lũ. “Nhà nước nên xác định một số loại cây trồng có nhu cầu tiêu thụ lớn để định hướng nông dân trồng thay cho cây lúa hè thu, có hợp đồng với doanh nghiệp, nhà máy chế biến thu mua. Tôi nghĩ một số loại cây có thể phù hợp hiện nay là bắp, mè, đậu nành… Bắp và đậu nành là nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi. Nếu Nhà nước hỗ trợ đầu tư công nghệ để tăng năng suất, chất lượng thì mình sẽ chủ động được nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, hạn chế nhập khẩu. Còn mè và một số loại đậu khác có thời gian bảo quản lâu, nhu cầu thị trường và xuất khẩu cũng lớn” - chú hai Tân đề xuất.
“Chuyên gia” trồng lúa Nhật còn cho rằng, khi trồng xen hoa màu vô vụ hè thu, vừa giúp cải tạo đất, cắt đứt mầm bệnh mà còn hạn chế được sản xuất lúa dư thừa, tràn lan như hiện nay. Khi đó, chỉ cần sản xuất từ 1 – 2 vụ lúa/năm nhưng đầu tư giống chất lượng cao, xây dựng thương hiệu, xuất khẩu giá cao hơn. Có như vậy, nông dân mới yên tâm sản xuất.
Có thể bạn quan tâm

Nguồn phát sinh nước thải từ hoạt động SX, chăn nuôi của trang trại chủ yếu là do quá trình dọn dẹp vệ sinh chuồng trại và bài tiết của động vật nuôi gồm phân, nước tiểu, nước vệ sinh chuồng trại, mỗi ngày có khoảng 100 m3 nước thải, trong những ngày có nhiệt độ cao nhất, sử dụng nước nhiều nhất.

Năm qua, trong bối cảnh khó khăn chung của ngành mía đường, Cty CP Đường Bình Định (BISUCO) đã gặp phải nhiều trắc trở trong kinh doanh, dẫn tới nợ nần nông dân khoản tiền lớn.

Các loại gạo này hầu hết được đóng gói đẹp mắt, có thương hiệu để tạo niềm tin cho người tiêu dùng. Ngoài gạo nội địa được trồng từ giống ngoại, thị trường còn có gạo nhập khẩu.

Giá mía tăng một phần do đầu vụ, mặt khác chữ đường vụ này đạt cao, dao động từ 10,5 đến 11 chữ đường, tăng gần 1 chữ đường so với vụ trước. Với giá mía hiện tại, những diện tích đạt năng suất 100 tấn/ha sẽ có lợi nhuận khoảng 10 triệu đồng, còn năng suất từ 120-200 tấn/ha thì mức lợi nhuận có thể đạt từ 30-60 triệu đồng.

Trong khi đó, giá mua tại vườn chỉ dao động ở mức 3.000-5.000 đồng một kg. Tuy nhiên, dù đang vào vụ thu hoạch rộ, nhưng tình hình thu mua của các thương lái khá chậm. Ông Hoàng, có vườn trồng hồng khoảng 1ha ở Đức Trọng cho biết dù đã kêu mấy ngày nay, người mua vẫn không đến lấy hàng.