Giá trị xuất khẩu tiêu giảm nhẹ dù giá vẫn tăng

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT): 8 tháng đầu năm, xuất khẩu tiêu chỉ đạt 104 nghìn tấn với giá trị 978 triệu USD.
Mặc dù tính chung xuất khẩu tiêu giảm cả lượng và giá trị, tuy nhiên suốt từ đầu năm đến nay, giá tiêu xuất khẩu vẫn luôn ở mức cao. Tính bình quân 7 tháng đầu năm giá xuất khẩu đạt 9.373 USD/tấn, tăng 28,11% so với cùng kỳ năm 2014. Các thị trường xuất khẩu tiêu lớn nhất của Việt Nam là Hòa Kỳ, các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất và Singapore với 38,86% thị phần.
Theo bà Nguyễn Mai Oanh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA): Năm nay, giá xuất khẩu tiêu luôn ở mức cao nhưng hàng xuất khẩu đi bị trả về nhiều hơn hẳn những năm trước, đặc biệt là ở những thị trường “khó tính” như EU, Nhật Bản.
Nguyên nhân là bởi hàng xuất đi không đảm bảo các yêu cầu về chất lượng. Trong quá trình thu hoạch và trữ tiêu, nông dân đã sử dụng chất Carbendazim để trữ tiêu và trừ nấm.
Bên cạnh đó, tiêu được thu mua qua hệ thống thương lái từ các hộ nhỏ dẫn tới tình trạng tiêu sạch và tiêu bẩn trộn lẫn nhau rồi đem bán cho các doanh nghiệp xuất khẩu khiến chất lượng tiêu không đảm bảo.
Ngoài ra, khó khăn doanh nghiệp gặp phải vẫn là vấn đề thiếu phòng kiểm định chất lượng tiêu có thể đáp ứng yêu cầu. Hiện nay các phòng kiểm định đạt tiêu chuẩn quốc tế có thể phân tích được 543 chỉ tiêu để kiểm soát hàng hoá nông sản liên quan đến xuất khẩu, trong đó có hồ tiêu nhưng các phòng kiểm định trong nước chỉ phân tích được chưa đến 200 chỉ tiêu.
Vì vậy, các doanh nghiệp muốn xuất khẩu tiêu sang các thị trường “khó tính” thường phải gửi mẫu xuất khẩu ra nước ngoài trước 2 tuần để kiểm định với chi phí không hề nhỏ.
Để giải quyết vấn đề này, VPA đề nghị Bộ NN&PTNT xem xét đầu tư xây dựng đơn vị kiểm định chất lượng của Nhà nước có năng lực phân tích mẫu theo tiêu chuẩn quốc tế (phân tích được 543 chỉ tiêu) để kiểm soát hàng hoá nông sản liên quan đến xuất khẩu, cấp giấy chứng nhận, giúp DN giảm chi phí và thời gian, đồng thời giúp kịp thời xử lý các vấn đề liên quan tới chất lượng hồ tiêu xuất khẩu.
Hình thức đầu tư có thể từ nguồn ngân sách hoặc bằng hình thức góp vốn, xã hội hoá đầu tư.
Có thể bạn quan tâm

Với gần 4 ngàn hécta, mía là một trong những cây trồng có diện tích lớn của Đồng Nai. Nhưng vài năm trở lại đây, nông dân kém mặn mà với cây mía vì hiệu quả kinh tế thấp. Trong khi nông dân loay hoay với bài toán tìm cây trồng hiệu quả hơn, thì các nhà máy chế biến đường lại lo vì thiếu nguyên liệu sản xuất.

Cuối cùng thì cây mía ở huyện Cù Lao Dung (Sóc Trăng) cũng vượt qua những áp lực lớn về giá tiêu thụ, về sự bùng phát của nghề nuôi tôm thẻ, để tiếp tục duy trì diện tích gieo trồng gần 8.000ha ở niên vụ mía 2014-2015. Tuy nhiên, về lâu dài, cây mía có còn là cây trồng chủ lực trên đất cù lao hay không vẫn chưa có câu trả lời.

Những ngày qua, vụ mùa nuôi tôm chân trắng ở thôn Trường Định bắt đầu thu hoạch. Tại đây có 23 hộ nuôi trên diện tích 15,25 ha, thu về 58,9 tấn tôm. Khác với cảnh mặc ai nấy bán ở những vùng chăn nuôi khác, tại thôn đã thành lập Chi hội nuôi tôm nhằm thống nhất giá, đảm bảo quyền lợi cho hội viên. Với mức giá tôm thương phẩm 125.000 đồng/kg (khoảng 100 con/kg), toàn thôn thu về 7,36 tỉ đồng, người nuôi tôm lãi ròng từ 100-400 triệu đồng/hộ sau khi trừ chi phí.

Một số ngư dân trên sông Vàm Nao vui mừng vì vừa đánh bắt được cá bông lau loại lớn, bình quân mỗi con cân nặng từ 8 - 9kg, bán 320.000 đồng/kg, thu được từ 2,5 – 2,8 triệu đồng/con. Theo ngư dân Trần Văn Chiến (xã Mỹ Hội Đông, Chợ Mới - An Giang), đây là cá nền (cá còn sót lại sau mùa vụ đánh bắt kéo dài trên 4 tháng) nên đa phần cá rất lớn.

Trong khi rất nhiều hộ thất bại trong chăn nuôi thì vợ chồng chị Nguyễn Thị Dung và anh Trần Minh Long ở thôn ức Vinh, xã Đức Mạnh, huyện Đắk Mil không chỉ đứng vững mà còn vươn lên làm giàu nhờ nuôi gà siêu trứng.