Giá Chè Tươi Thấp, Người Trồng Chè Thấp Thỏm Nỗi Lo

Gia đình ông Hà Trọng Tâm ở khu 4, xã Liên Hoa, huyện Phù Ninh là một trong những hộ có năng suất chè cao nhất ở xã, bình quân đạt khoảng 18 đến 20 tấn/ha/năm. Với diện tích gần 4ha chè và chế biến chè khô, mỗi năm gia đình ông thu được gần 200 triệu đồng, trừ chi phí cũng còn lãi xấp xỉ 100 triệu đồng.
Năm ngoái, có những thời điểm, chè nhà ông bán được gần 7.000 đồng/kg búp tươi loại A, bình quân cũng được hơn 6.000 đồng/kg cả vụ. Tuy nhiên, từ đầu vụ chè năm nay giá chè chỉ dao động ở mức 4.000 - 4.300 đồng/kg chè loại A, có những thời điểm xuống dưới 4.000 đồng khiến cho ông và nhiều hộ trồng chè trong xã lo lắng.
Ông Tâm cho biết: Giá chè phải từ 4.200 đồng trở lên thì người trồng chè mới có lãi bởi hiện nay giá vật tư như phân bón, thuốc BVTV, tiền thuê nhân công hái... ngày càng cao. Nếu giá cứ xuống thấp như thế này thì người trồng chè như chúng tôi không dám đầu tư nhiều, chỉ chăm sóc để giữ vườn thôi.
Giá chè tươi xuống thấp khiến người trồng chè thấp thỏm nỗi lo, không yên tâm đầu tư thâm canh.
- Ông Hà Trọng Tâm trao đổi kỹ thuật thâm canh chè với cán bộ khuyến nông.
Cùng tâm sự như ông Tâm, gia đình chị Hoàng Thị Như Tình ở xã Văn Luông, huyện Tân Sơn cũng đang lo sốt vó vì giá chè tươi xuống quá thấp.
Các đại lý thu mua trên địa bàn huyện hiện nay chỉ mua từ 3.200 đồng đến 3.800 đồng/kg tùy loại. Chị Tình thổ lộ: Gia đình tôi có hơn gần 3ha chè, mỗi năm thu hoạch khoảng 25 – 26 tấn chè tươi, nếu giá chè cứ giữ ở mức khoảng 4.200 đồng/kg trở lên thì gia đình cũng có lãi khoảng 25 – 30 triệu đồng/năm.
Đây là số tiền khá lớn đối với người dân miền núi như chúng tôi. Năm nay giá chè thấp quá, từ đầu vụ đến giờ chưa lúc nào lên được đến 5.000 đồng/kg, đầu tư vào nhiều thì lỗ mà không đầu tư thì năng suất thấp, chè xấu càng khó bán.
So với cùng kỳ năm 2013 thì giá chè búp tươi chỉ bằng 2/3. Nhiều doanh nghiệp chế biến xuất khẩu chè vẫn còn tồn khá nhiều hàng cũ, chưa xuất khẩu được. Trong khi đó, theo thống kê của Hiệp hội Chè Việt Nam xuất khẩu chè của Việt Nam sang các thị trường trong 5 tháng đầu năm 2014 đạt 44.292 tấn, giảm 10,29% về lượng và giảm 5,87% về trị giá.
Do đó, nhiều doanh nghiệp chế biến, kinh doanh và xuất khẩu chè chỉ thu mua nguyên liệu cầm chừng để duy trì sản xuất khiến giá chè tươi nguyên liệu xuống thấp. Một nguyên nhân nữa là nhiều địa phương người trồng chè vẫn còn dùng thuốc BVTV tràn lan; thu hái sớm hơn so với thời gian cách ly khiến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm không đảm bảo.
Tỉnh ta là một trong những tỉnh có diện tích chè lớn, nhiều doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu có uy tín đứng chân. Nhiều mô hình chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, HACCP cũng đã được xây dựng.
Tại các huyện như Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Cẩm Khê, Hạ Hòa, Thanh Ba, Phù Ninh... đã hình thành các làng nghề chế biến chè bên cạnh các doanh nghiệp. Hiện nay trên toàn tỉnh đã có gần 100 cơ sở chế biến chè với công suất 1 tấn búp tươi/ngày và hàng ngàn cơ sở chế biến nhỏ lẻ.
Những doanh nghiệp, cơ sở chế biến này đã góp phần thúc đẩy việc trồng chè phát triển. Việc có nhiều cơ sở chế biến sẽ tạo thuận lợi cho nông dân trong tiêu thụ sản phẩm, nhưng lại bất lợi về việc quản lý tiêu chuẩn, nhất là vệ sinh thực phẩm.
Qua đợt kiểm tra cuối năm 2011 của Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản cho thấy: Chỉ có 1/3 số cơ sở chế biến lớn đạt tiêu chuẩn loại A về vệ sinh thực phẩm, trong khi đó có gần 1/3 cơ sở mới đạt loại C. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng thương hiệu chè Phú Thọ.
Cũng do có quá nhiều cơ sở chế biến mà sản phẩm chè của tỉnh ta khá đa dạng, nhưng thiếu hẳn một thương hiệu có “tên tuổi” để khẳng định trên thị trường. Ngay hai doanh nghiệp FDI chuyên sản xuất chè đen quy mô lớn nhưng cũng “mạnh ai nấy làm” và chưa chú trọng đến xây dựng quảng bá thương hiệu chè Phú Thọ.
Trên địa bàn có rất nhiều cơ sở chế biến chè, nhưng lại chưa có cơ sở chế biến chè cao cấp, chè đặc sản như Ô Long, chè đặc sản xuất khẩu dù Viện Nghiên cứu chè đã chế biến thành công, thương nhân nước ngoài khảo sát khẳng định Phú Thọ hoàn toàn có điều kiện để chế biến các loại chè chất lượng cao để xuất khẩu.
Để có thể xây dựng được thị trường ổn định, bền vững thì các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chè trong tỉnh vẫn phải tiếp tục giữ vững thị trường đã có, tiếp tục tìm kiếm các thị trường tiềm năng; giữ vững uy tín, đặc biệt là trong việc đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, quảng bá thương hiệu chè Phú Thọ một cách rộng rãi.
Đối với người trồng chè cần khẩn trương loại bỏ diện tích chè cũ, năng suất thấp, thay thế bằng các giống chè cho năng suất cao, chất lượng tốt; tuân thủ nghiêm các quy định về sản xuất chè an toàn...
Có thể bạn quan tâm

Là đảng viên trẻ, gánh vác trọng trách tuyên truyền, vận động nông dân phát triển kinh tế, anh luôn đi đầu trong phong trào sản xuất, tìm hướng đi mới cho kinh tế của thôn, trong đó phát triển mạnh các loại cây rau màu chế biến xuất khẩu. Cùng đó, anh lãnh đạo nhân dân duy trì sản xuất lạc đông, trực tiếp tổ chức sản xuất, thu mua và bao tiêu sản phẩm.

Cần cù lao động, không ngừng tìm hiểu đưa vào thị trường những sản phẩm mộc dân dụng mới, Nguyễn Văn Toàn (ảnh), Chủ nhiệm Hợp tác xã (HTX) đồ gỗ mỹ nghệ Toàn Thịnh đã góp phần xây dựng vùng quê Trung Đồng, xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) ngày càng trù phú. Anh vinh dự là một trong ba gương mặt trẻ tiêu biểu của tỉnh nhận giải thưởng Lương Định Của năm 2012 do Trung ương Đoàn trao tặng.

Ngồi trò chuyện cùng tôi, ông Xưởng nguyên là Trưởng phòng Hành chính Nông Trường Yên Thế nhắc tới một câu chuyện gợi lại một thời khốn khó của Nông Trường mà cũng là khó khăn chung của cả đất nước. Nông Trường Yên Thế được thành lập ngày 3-1-1966, với tên gọi ban đầu là Nông Trường Quốc Doanh Yên Thế (tách ra từ Nông Trường Quốc Doanh Bố Hạ). Trải qua bao thăng trầm, tới ngày 6-11-2008 thì Nông Trường giải thể để thành lập xã Đồng Tâm. Để có cái tên Đồng Tâm là cả một sự trăn trở của bao người. Anh Dương Văn Thế, Chủ tịch UBND xã tâm sự cùng tôi: “Đảng ủy bàn bạc tìm được tên rồi còn tranh thủ xin ý kiến của các đảng viên lão thành, những cán bộ chủ chốt của Nông Trường nay đã về hưu.” Mọi người thống nhất với tên mới Đồng Tâm. Một cái tên gợi lên bao điều: Là ý chí quyết tâm của Đảng bộ với 200 đảng viên; là sự đồng lòng chung sức của cả một xã mới với 788 hộ và 2.651 nhân khẩu.

Cùng với việc xây dựng ổn định đời sống văn hóa, chị em phụ nữ ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của mình trong các phong trào ở địa phương nhất là phong trào thi đua phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho gia đình. Một trong những tấm gương đó là chị Nguyễn Thị Huấn - Chi hội trưởng Chi hội Phụ nữ tổ dân phố Vĩnh Ninh 2, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang Chị Nguyễn Thị Huấn bắt đầu chuyển đổi từ nghề nông sang nghề trồng hoa, trồng đào từ năm 2005. Được biết, trước kia kinh tế gia đình chị gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu chỉ trông chờ vào mấy sào ruộng. Sau khi Thành phố mở rộng thu hồi đất, gia đình chị bắt đầu đi thuê đất làm kinh tế gia đình, và chuyển sang trồng đào, trồng hoa mỗi năm thu được gần trăm triệu đồng.

Đó là nhận xét của lãnh đạo xã Phi Mô và Ban Chỉ huy quân sự (CHQS) huyện Lạng Giang (Bắc Giang) về anh Nguyễn Thành Chung, Chỉ huy trưởng Ban CHQS xã Phi Mô.