Trang chủ / Hải sản / Tôm sú

Gây Màu Nước Trong Ao Nuôi Tôm

Gây Màu Nước Trong Ao Nuôi Tôm
Ngày đăng: 14/02/2012

Trong nuôi tôm, màu nước nuôi rất quan trọng. Có màu nước lợi cho tôm và cũng có màu nước lại gây hại cho tôm. Vì vậy người nuôi tôm cần nắm vững quy luật thay đổi màu nước. Bản chất của màu nước được định lượng bằng hàm lượng các chất hữu cơ và vô cơ chứa trong nước.

Các hợp chất vô cơ.

Các hợp chất vô cơ bao gồm chất không hòa tan và hòa tan. Nếu nước ao nuôi đủ chất lượng thì hàm lượng các chất vô cơ không hòa tan (cát, bùn) không được quá 80mg/lít, vì nếu quá tôm sẽ chết vì ngạt thở do bị bít mang. Còn các chất vô cơ hòa tan thường do phèn sắt (màu đỏ gạch) trong đó sắt có hóa trị 1, 2, 3 rất có hại cho tôm. Khi mực nước ngoài cao hơn mực nước ao nuôi thì đáy ao có thể lỏng, dạng rỉ sắt màu đỏ làm nước ao tôm có màu gạch đỏ, trên mặt ao xuất hiện váng.

Các chất hữu cơ.

Các chất hữu cơ bao gồm các sinh vật phù du, thực vật đáy, động vật nguyên sinh. Các phiêu sinh thực vật (sinh vật phù du) và phiêu sinh động vật là nguồn thức ăn tự nhiêm của tôm, giúp tôm tăng trưởng nhanh.

Việc tạo màu nước thông qua sử dụng các loại phân hữu cơ và vô cơ là tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm, nhất là ở giai đoạn đầu khi tôm còn nhỏ. Muốn nuôi tôm, trước đó phải nuôi màu nước, để tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm.

Cách nuôi nước.

- Bón phân vô cơ (urê hoặc DAP): bón ngày thứ nhất 2,2kg/1.000m2; từ ngày thứ 2-21, mỗi ngày bón 0,65kg/1.000m2; từ ngày thứ 22-30, bón 0,95kg/1.000m2.

- Bón phân hữu cơ: dùng cám sống, bón ngày thứ nhất đến ngày thứ 21; bón 1-1,2kg/1.000m2/ngày; từ ngày 22-30 bón 1,3kg/1.000m2/ngày.

Các loại phân hữu cơ như phân chuồng, phân gà thường dễ mang theo vi khuẩn gây bệnh. Còn các loại phân DAP, urê, tuy tạo nguồn thức ăn cho sinh vật phù du rất tốt, nhưng tàn lụi rất nhanh. Hai loại phân hữu cơ và vô cơ tuy có giúp phát triển sinh vật phù du song màu nước rất dễ lên và xuống. Các loại sinh vật phù du do các loại phân này tạo điều kiện phát triển chỉ đạt yêu cầu về định lượng, mà không đạt về định tính. Nó tùy thuộc vào loại tảo sẵn có trong ao, chứ không định hướng được loại tảo nào cần ưu tiên phát triển, loại tảo nào cần hạn chế. Việc sử dụng chế phẩm sinh học để nuôi các phiêu sinh là đặc dụng nhất, vì nó chủ động đưa vào nước ao nuôi một hệ vi sinh vật có lợi, nhằm giúp các loại tảo có ích phát triển và hạn chế các loại tảo có hại.

Các chế phẩm sinh học vừa đáp ứng được yêu cầu trên, vừa làm cho nước ao nuôi "béo lên", vừa làm sạch nước, giảm BOD, COD, phòng bệnh và kích thích tôm sinh trưởng. Nếu ao nuôi khó gây màu nước, có thể do nước ao thiếu nguồn tảo cần thiết, nên lấy nước ở ao "béo" khác (có màu nước tốt) làm nguồn giống cho vào các ao này, rồi sử dụng chế phẩm sinh học để thúc đẩy các sinh vật phù du hữu ích phát triển.

Khi màu nước ao nuôi đã đạt yêu cầu (vàng nâu hoặc nâu lục), độ trong đạt 25-40cm thì thả tôm giống. Sau khi thả tôm giống, do năng lực bơi và bắt mồi của tôm còn yếu, trong 20-30 ngày đầu (tôm con chủ yếu ăn các phiêu sinh vật) nên tạo màu nước tốt lúc đầu là biện pháp kỹ thuật quan trọng, để nâng cao tỉ lệ tôm sống, tạo điều kiện cho tôm phát triển tốt ở giai đoạn giữa và giai đoạn cuối.

Chú ý, khoảng 7-10 ngày sau khi thả, tôm đã bắt mồi nên các phiêu sinh trong ao nuôi có thể cạn dần, vì thế cần tiếp tục bón tiếp chế phẩm sinh học để ổn định màu nước, đảm bảo tôm con không bị gián đoạn nguồn thức ăn tự nhiên.

Giai đoạn đầu thực hiện 7-10 ngày "bón thúc" chế phẩm sinh học một lần, cho đến khi tôm đạt yêu cầu để chuyển sang giai đoạn giữa và cuối.

Ao có màu nước tốt nghĩa là các loại phiêu sinh vật trong ao phát triển tốt, tôm nuôi trong vòng 20-30 ngày đầu không cần cho ăn thêm thức ăn công nghiệp. Trong trường hợp mật độ 50 con/m2, nguồn thức ăn tự nhiên có thể không đủ, cần cho thêm lượng thức ăn công nghiệp thích hợp dành cho tôm giống và đó cũng là cách gián tiếp tạo màu nước, tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm.

Giai đoạn đầu không được cho tôm ăn thức ăn tươi sống như cá, nhuyễn thể, trứng nghiền vì tôm con chưa ăn được mà còn tạo điều kiện cho vi sinh vật gây bệnh, có hại phát triển, vô tình phá vỡ cơ cấu sinh thái nước ao.


Có thể bạn quan tâm

Nuôi Vỗ Tôm Sú Bố Mẹ Theo Qui Trình Lọc Sinh Học Nuôi Vỗ Tôm Sú Bố Mẹ Theo Qui Trình Lọc Sinh Học

Trại tôm mẹ được thiết kế cần 10 - 15% diện tích mái lợp sử dụng tol nhựa mờ, xung quanh bể che kín là đủ ánh sáng cần thiết cho quá trình nuôi vỗ

04/01/2012
Kinh Nghiệm Thả Tôm Giống Kinh Nghiệm Thả Tôm Giống

Trong nuôi tôm, ít người chú ý đến kỹ thuật thả tôm vì đơn giản họ nghĩ rằng thả tôm như thế nào cũng không ảnh hưởng đến sự sống của tôm. Thực tế không phải như vậy, kỹ thuật thả tôm rất quan trọng đến sự thích nghi và sức khỏe của tôm sau khi được chuyển từ môi trường này đến môi trường khác.

04/01/2012
Bệnh Còi Bệnh Còi

Khi tôm mới nhiễm virus MBV, dấu hiệu bệnh không biểu hiện rõ ràng. Khi tôm nhiễm bệnh nặng và phát bệnh thường có biểu hiện một số dấu hiệu sau: Tôm có màu tối hoặc xanh tái, xanh xẫm. Tôm kém ăn, hoạt động yếu và sinh trưởng chậm (chậm lớn)

31/07/2011
Bệnh Phát Sáng Bệnh Phát Sáng

Bệnh phát sáng xuất hiện quanh năm trên các loài tôm sú, thẻ, càng xanh... Bệnh có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn ương nuôi từ trứng đến tôm trưởng thành. Bệnh phát triển mạnh trong môi trường nước giàu dinh dưỡng, nhiều chất hữu cơ ở độ mặn cao, thiếu oxy hòa tan, lây lan nhanh trong mùa nóng

31/07/2011
Bệnh Đen Mang Bệnh Đen Mang

Bệnh đen mang là bệnh thường gặp ở tôm nuôi trong các ao nuôi có môi trường không tốt, mật độ nuôi dày. Mang và vùng mô nối mang với thân tôm có màu nâu hoặc đen. Khi nhiễm nặng các phụ bộ, chân và đuôi cũng bị đen. Tôm nổi đầu do thiếu oxy, bơi lờ đờ trên mặt nước, dạt vào bờ

31/07/2011