Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

FTA Việt Nam - Hàn Quốc cơ hội đã đến cho thủy sản Việt Nam

FTA Việt Nam - Hàn Quốc cơ hội đã đến cho thủy sản Việt Nam
Ngày đăng: 13/05/2015

Sau hơn 2 năm với 8 vòng đàm phán chính thức và 8 vòng đàm phán cấp Trưởng đoàn, đàm phán giữa kỳ, Việt Nam và Hàn Quốc đã thống nhất toàn bộ nội dung Hiệp định VKFTA. Với những nội dung đã được thỏa thuận, Hiệp định này sẽ mang đến những tác động tích cực cho các DN XK thủy sản Việt Nam, nhất là XK tôm và mực, bạch tuộc.

Theo thỏa thuận, Hàn Quốc cam kết tự do hóa cho 97,2% tổng giá trị hàng nhập từ Việt Nam. Theo đó, phía Hàn Quốc sẽ cắt giảm thuế đối với nhiều nhóm hàng nông, thủy sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như tôm, cua, cá và hàng công nghiệp như dệt may, đồ gỗ, sản phẩm cơ khí... Điều đáng nói là số dòng thuế Hàn Quốc cắt giảm cho Việt Nam lên tới 95,4% số dòng thuế, nhiều hơn số dòng thuế họ cắt giảm cho các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam (như Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Thái Lan...) khoảng 5%, giúp tăng đáng kể sức cạnh tranh, khả năng thâm nhập của hàng Việt vào thị trường Hàn Quốc.

Năm 2014, Hàn Quốc là thị trường XK lớn thứ 4 của thủy sản Việt Nam với giá trị đạt 662,8 triệu USD, tăng 27,2% so với năm 2013. Ba tháng đầu năm 2015, Hàn Quốc đứng 5 (sau Mỹ; EU, Nhật Bản, Trung Quốc - HongKong) trong tổng thị trường XK quan trọng nhất với giá trị đạt 119,6 triệu USD, giảm 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, đây là thị trường XK ổn định và giàu tiềm năng của DN XK tôm, mực, bạch tuộc.

Ba tháng đầu năm 2015, mặc dù giá trị XK tôm sang Hàn Quốc giảm 19,5% so với cùng kỳ năm 2014 tương đương 51,33 triệu USD. Tuy nhiên, những lợi ích mà VKFTA sẽ đem lại trong những năm tới hứa hẹn XK sang thị trường này sẽ có nhiều tích cực hơn. Hiện nay, Việt Nam cũng đang là nguồn cung lớn nhất tôm tại Hàn Quốc chiếm gần 46% tổng giá trị NK của nước này, tiếp đó là Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Bangladesh.

Tuy nhiên, theo thống kê của Trung tâm Thương mại thế giới (ITC), hiện nay, giá tôm tại Việt Nam vẫn đang ở mức cao hơn so với giá NK trung bình của Hàn Quốc, đồng thời cao hơn so với giá tôm của Ấn Độ, Bangladesh khoảng 1 USD/kg, cao hơn giá tôm của Indonesia từ 1,5-2 USD/kg và cao hơn giá tôm Trung Quốc 4-5 USD/kg. Sau FTA được ký kết, mức thuế suất ưu đãi tại thị trường Hàn Quốc sẽ giúp tăng sức cạnh tranh và giá bán của sản phẩm tôm tại nước này.

Theo VKFTA vừa mới được ký, Hàn Quốc cam kết sẽ miễn thuế mặt hàng tôm của Việt Nam với lượng hạn ngạch 10.000 tấn/năm và tăng dần lên đến mức 15.000 tấn/năm. Không chỉ giảm thuế, cam kết còn giảm thiểu các hàng rào phi thuế, các yêu cầu về kỹ thuật... mà nhiều DN còn lo ngại hơn cả thuế. Đây là cơ hội tốt để các DN tôm đẩy mạnh XK hơn nữa vào thị trường này.

Hiện nay, Hàn Quốc đang là thị trường XK hàng đầu của mực, bạch tuộc Việt Nam. Tính đến hết tháng 3/2015, Hàn Quốc chiếm đến 41,2%  XK mực, bạch tuộc của Việt Nam, tương đương 35,8 triệu USD, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động XK ảm đạm tại thị trường Nhật Bản và EU đang khiến các DN đẩy mạnh sang thị trường này. Nhu cầu NK bạch tuộc đông lạnh, khô muối hoặc ngâm nước muối gia tăng trong 2 năm trở lại đây và đầu năm 2015 đang là cơ hội cho DN Việt Nam tại thị trường này.

Trung Quốc và Việt Nam đang giành giật thị phần mực, bạch tuộc của Hàn Quốc, trong đó cả hai đều tập trung vào sản phẩm bạch tuộc đông lạnh. Tuy nhiên, do khó khăn hơn về nguồn nguyên liệu nên dù mức bảo hộ từ sản phẩm NK Việt Nam chỉ từ 0-5% còn với Trung Quốc là 10-15% nhưng DN Trung Quốc vẫn đang thắng thế nhờ nguồn cung ổn định và giá cả cạnh tranh.

Thuế suất ưu đãi, sự minh bạch về hàng rào phi kỹ thuật dễ chịu hơn, các DN XK thủy sản Việt Nam đang và sẽ có nhiều lợi thế hơn nữa so với các đối thủ cạnh tranh lớn như: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Peru… Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, “cánh cửa” vào thị trường Hàn Quốc đã rộng mở hơn cho các DN Việt Nam nhưng trong thời gian tới những đòi hỏi khắt khe hơn về ATTP buộc cả Nhà nước và DN phải nỗ lực hơn nữa trong việc kiểm soát dư lượng kháng sinh và đổi mới hơn hoạt động kinh doanh. Như các DN Trung Quốc, dù không có được lợi thế về thuế suất nhưng họ vẫn có nhiều cách để “làm chủ” thị trường.


Có thể bạn quan tâm

Xúc Tiến Thương Mại, Tìm Đầu Ra Cho Nông Sản Xúc Tiến Thương Mại, Tìm Đầu Ra Cho Nông Sản

Tuy nhiên, do sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, chưa có quy hoạch vùng nguyên liệu ổn định; các đơn vị đăng ký thương hiệu còn ít. Phần lớn sản phẩm sản xuất ra chưa đáp ứng được tiêu chí về đăng ký bảo hộ thương hiệu; chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm; bao bì, nhãn mác đơn điệu, thiếu tính thẩm mỹ, chưa tạo được thiện cảm với người tiêu dùng; hoạt động quảng bá sản phẩm mới thực hiện trong phạm vi hẹp chứ chưa sâu rộng, đồng bộ… nên số lượng hàng hóa nông sản tiêu thụ tại thị trường lớn chưa nhiều, giá bán bấp bênh.

27/11/2014
Khóm Tân Phước Liên Tục Rớt Giá Khóm Tân Phước Liên Tục Rớt Giá

Giá khóm tại Tân Phước (Tiền Giang) hiện đang rớt giá mạnh khiến nhiều nông dân lo lắng. Qua khảo sát tại các điểm thu mua, giá khóm hiện chỉ trên dưới 1.000 đồng/kg nhưng lượng mua vào rất ít.

26/06/2014
Quảng Ninh Xây Dựng Thương Hiệu Nông Sản Tu Hài Vân Đồn Quảng Ninh Xây Dựng Thương Hiệu Nông Sản Tu Hài Vân Đồn

Theo ông Đinh Trung Kiên, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Vân Đồn (Quảng Ninh), nghề nuôi trồng tu hài đã phát triển nhiều năm nay ở địa phương. Đến nay, Vân Đồn đã có khoảng 100 hộ gia đình và 3 doanh nghiệp nuôi tu hài, thu hút một lượng lớn lao động và mang lại thu nhập khá cao cho ngư dân trong vùng.

26/06/2014
Đưa Nông Sản Việt Vào Hệ Thống Bán Lẻ Quốc Tế Đưa Nông Sản Việt Vào Hệ Thống Bán Lẻ Quốc Tế

Hiện cả nước có 6.000 cơ sở chế biến có công nghệ thiết bị tương đối hiện đại, trong đó, hơn 2.000 cơ sở chế biến nông sản, 570 cơ sở chế biến thủy sản và 3.000 cơ sở chế biến gỗ. Một số ngành đã đáp ứng được yêu cầu chất lượng đối với các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản…, điển hình như thủy sản, nhân hạt điều, hồ tiêu, đồ gỗ...

27/11/2014
Tái Cơ Cấu Ngành Lâm Nghiệp Theo Hướng Nâng Cao Giá Trị Gia Tăng Và Phát Triển Bền Vững Tái Cơ Cấu Ngành Lâm Nghiệp Theo Hướng Nâng Cao Giá Trị Gia Tăng Và Phát Triển Bền Vững

Thanh Hóa là tỉnh có diện tích rừng và đất lâm nghiệp lớn, với 626.757 ha, trong đó có 567.000 ha rừng và gần 60.000 ha đất chưa có rừng. Đây là tiềm năng lớn để tạo bước đột phá cơ bản cho phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên tiềm năng này chưa được khơi dậy một cách hiệu quả, bền vững.

27/11/2014