Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Đừng Phớt Lờ Việc Đáp Ứng Chất Lượng Nông Sản

Đừng Phớt Lờ Việc Đáp Ứng Chất Lượng Nông Sản
Ngày đăng: 16/07/2014

Về lâu dài, chúng ta không thể lờ đi việc đáp ứng các yêu cầu đối với chất lượng nông sản bởi lẽ tiêu thụ nông sản sạch là xu hướng tất yếu của tất cả các nước

Từ bỏ cái lợi trước mắt

Nông sản Việt Nam vốn được đánh giá là phong phú chủng loại, ngon, rẻ… Tuy nhiên, để khẳng định mình trên thị trường thế giới, những lợi thế đó chưa đủ. Điều kiện tối ưu là nông sản Việt Nam phải nâng cao chất lượng sản phẩm.

Trong nhiều năm nay, Trung Quốc vốn là thị trường nhập khẩu nông sản chiếm tỷ trọng lớn của Việt Nam bởi đây là thị trường “dễ tính”, tiêu chuẩn thấp, không có hàng rào kỹ thuật…Tuy nhiên, sự “dễ tính” này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và ngày càng làm giảm giá trị của hàng nông sản Việt Nam.

Trước thực tế đó, ông Trần Công Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp Phát triển Nông thôn (IPSARD), khuyến cáo người nông dân không vì cái lợi trước mắt, mà nên tìm tới những mặt hàng nông sản có tính ổn định cao, lâu dài…, và trên hết phải chú trọng tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm. Theo đó, sản xuất không thể tuỳ tiện, làm theo thói quen và thiếu quy hoạch mà cần áp dụng theo các tiêu chuẩn tiên tiến, gia tăng nhiều hơn hàm lượng khoa học công nghệ để tăng chất lượng, độ an toàn vệ sinh thực phẩm.

“Về lâu dài, chúng ta không thể lờ đi việc đáp ứng các yêu cầu đối với chất lượng nông sản bởi tiêu thụ nông sản sạch là xu hướng tất yếu của tất cả các nước, trong khi Việt Nam đang nằm trong danh sách các nước có hàng nông sản bị trả lại vì không đáp ứng tiêu chuẩn của các nước châu Âu, Mỹ, Nhật Bản…Chẳng hạn, chè, rau quả, tôm có dư lượng kháng sinh vượt mức cho phép. Đây chính là điểm yếu của chúng ta”, ông Thắng lấy ví dụ.

Lãnh đạo này cũng cho biết thêm, thời gian vừa qua, có thể chính vì những thay đổi trong chính sách nhập khẩu của Trung Quốc mà hoa quả nội có cơ hội tiêu thụ tốt hơn. Và vì thế, vấn đề dư lượng thuốc BVTV hoặc chất bảo quản cũng không còn đáng lo ngại như với các mặt hàng hoa quả nhập qua đường tiểu ngạch từ Trung Quốc về.

Về vấn đề này, ông Đinh Văn Hương, Chủ tịch Hiệp hội rau quả Việt Nam cũng cho biết, do đặc điểm ruộng đất tại Việt Nam là manh mún, nhỏ lẻ, khả năng tích tụ ruộng đất thấp nên nông sản Việt Nam gặp những yếu kém như: chất lượng nông sản, mẫu mã không đồng đều, không ổn định…

“Chúng ta không kiểm soát được các dư lượng hoá chất, thuốc trừ sâu, không đảm bảo an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế, không đảm bảo việc thực hiện các chứng nhận quốc tế cho nông sản như GlobalGap…., công nghệ bảo quản sau thu hoạch cũng rất kém làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm”, ông Hương nhận định.

Người đứng đầu ngành rau quả Việt Nam cũng cho biết thêm rằng, nông sản Việt Nam chưa vượt qua được các hàng rào kỹ thuật, máy chế biến nông sản còn chưa đa dạng, chưa đáp ứng nhu cầu thế giới, công nghệ chế biến còn chưa cao, chưa đủ các chứng nhận quốc tế để có thể bán vào các thị trường khó tính nhưng bền vững.

Ứng dụng khoa học trong bảo quản, chế biến nông sản

Hiện nhiều sản phẩm hoa quả Việt Nam như: bưởi Năm roi, thanh long, dưa hấu, bí ngô, khoai lang…đã bắt đầu xuất hiện ở các siêu thị tại Singapore, Ấn Độ…và sắp tới có thể sẽ có mặt tại thị trường Argentina…

Tuy nhiên, nông dân Việt Nam, những người vốn không quen với các phương tiện hiện đại ngày càng cảm nhận rõ sức ép của việc thiếu kiến thức khoa học, công nghệ và việc chưa tiếp cận được các quy trình chế biến, bảo quản tiên tiến dẫn đến chất lượng, giá trị nông sản thấp. Họ thường xuyên phải lo lắng về đầu ra cho các sản phẩm của mình mỗi khi đến mùa thu hoạch.

Chủ tịch Hiệp hội rau quả Việt Nam - Đinh Văn Hương cho hay, ngoài vấn đề tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, nông sản Việt Nam còn thiều chuyên nghiệp trong khâu bảo quản sau thu hoạch.

Chẳng hạn, vải thiều, xoài dù được mùa nhưng do không có phương pháp bảo quản tốt nên bà con nông dân phải bán gấp trong thời gian ngắn, giá thành hạ…trong khi các nước có phương pháp bảo quản sau thu hoạch rất tốt nên hoa quả của họ để cả tháng không bị hỏng.

Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ - Nguyễn Quân cho biết, về lâu dài, Bộ mong muốn có công nghệ bảo quản, chế biến.

Năm 2013, Bộ đã có chương trình hợp tác với Nhật Bản về bảo quản sau thu hoạch các sản phẩm nông nghiệp, trị giá gần 1 triệu USD. Đó là công nghệ CAS của Nhật Bản để sử dụng trong bảo quản những sản phẩm hải sản, nông sản hàng hóa xuất khẩu.

Hải sản và trái cây được bảo quản bằng công nghệ CAS sẽ giữ được chất lượng, độ thơm ngon như vừa mới thu hoạch và thời gian lưu trữ có thể một hay nhiều năm, tùy đối tượng. Đây cũng là công nghệ đã được áp dụng rất hiệu quả tại nhiều doanh nghiệp chế biến và kinh doanh hải sản, nông sản…tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Bộ trưởng cũng cho biết thêm, đối với quả vải, Bộ đang đàm phán với phía Nhật Bản để thâm nhập vào thị trường này.

“Theo quy trình hiện nay, chúng ta phải thí điểm đưa cho họ một sản phẩm mẫu. Sau khi họ chấp nhận chúng ta mới ký được hợp đồng. Ngay cả khi họ đã chấp nhận thì việc đưa một sản phẩm vào một quốc gia có tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm khắt khe như Nhật Bản và các nước châu Âu cũng là vấn đề không dễ dàng.

Vì thế, nông dân khu vực trồng vải  phải tổ chức sản xuất lại, phải gieo trồng, chăm bón, thu hoạch theo quy trình trước mắt là VietGap, còn về lâu dài là những tiêu chuẩn quốc tế (Global Gap). Khi đó, quả vải mới có được chất lượng đồng nhất, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm”, Bộ trưởng nói.

Có thể nói, đích đến của chương trình xây dựng thương hiệu cho nông sản chính là nâng cao chất lượng, sản lượng của các loại nông sản, đưa khoa học công nghệ tiên tiến vào quy trình nuôi trồng, sản xuất, kinh doanh, từ đó giúp nâng cao giá trị sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới.


Có thể bạn quan tâm

Ứng Dụng Kỹ Thuật, Công Nghệ Mới Trong Nuôi Tôm Thẻ Chân Trắng Ứng Dụng Kỹ Thuật, Công Nghệ Mới Trong Nuôi Tôm Thẻ Chân Trắng

Với khả năng chống chịu bệnh cao, kỹ thuật nuôi đơn giản, thời gian nuôi ngắn, lại cho năng suất, hiệu quả kinh tế cao nên những năm qua, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng trên địa bàn tỉnh liên tục tăng, hiện đạt 486ha ở ba huyện ven biển Hải Hậu, Giao Thủy và Nghĩa Hưng. Nhiều hộ nuôi đạt năng suất 10 tấn/ha, có hộ đạt 14-15 tấn/ha, cho thu lãi từ 350 triệu đồng đến 1,2 tỷ đồng/ha.

15/08/2013
Tỷ Phú Cá Lăng Đuôi Đỏ Tỷ Phú Cá Lăng Đuôi Đỏ

Ông Nguyễn Nhật Lệ, GĐ Trung tâm Khuyến nông Đăk Lăk cho biết, toàn tỉnh có khoảng 150 hộ nuôi cá lăng đuôi đỏ với diện tích 15 ha, chủ yếu nuôi trong ao đất và lồng bè. Điển hình là hộ anh Nguyễn Minh Tuấn, người tiên phong nuôi cá lăng đuôi đỏ ở hồ Ea Kao.

07/07/2013
Vì Sao Phải Ứng Dụng Tiêu Chuẩn Sản Xuất An Toàn Thực Phẩm Trên Cây Trái? Vì Sao Phải Ứng Dụng Tiêu Chuẩn Sản Xuất An Toàn Thực Phẩm Trên Cây Trái?

Đó là chủ đề chính trong hội thảo khoa học vừa được Sở Khoa học và Công nghệ, UBND huyện Chợ Lách và Ban Quản lý Dự án DBRP phối hợp tổ chức tại Chợ Lách (Bến Tre). Nhiều nhà khoa học đến từ các viện, trường và hàng trăm nông dân trong, ngoài tỉnh đã đến dự.

07/07/2013
Mở Rộng Mô Hình Chăn Nuôi Hươu Quy Mô Lớn Ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) Mở Rộng Mô Hình Chăn Nuôi Hươu Quy Mô Lớn Ở Hương Sơn (Hà Tĩnh)

Lâu nay, nghề chăn nuôi hươu ở huyện miền núi Hương Sơn đã góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho nhân dân. Đặc biệt trong thời gian gần đây bằng nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích phù hợp nên nghề chăn nuôi hươu trên địa bàn đã có bước phát triển vượt bậc, việc xây dựng mô hình theo hướng tập trung hàng hóa thực sự có sức lan tỏa rộng lớn trong nếp nghĩ, cách làm của hầu hết người dân.

08/04/2013
Tập Huấn Kỹ Thuật Phòng Trừ Ruồi Đục Quả Táo Tập Huấn Kỹ Thuật Phòng Trừ Ruồi Đục Quả Táo

Tại buổi tập huấn, cán bộ kỹ thuật hướng dẫn bà con tìm hiểu các triệu chứng, đặc điểm, chu trình gây hại của ruồi đục quả và biện pháp phòng trừ bằng bẫy bả sinh học Ento – Pro. Qua đó giúp nông dân phòng trừ sâu bệnh hiệu quả, nâng cao năng suất, chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cho sản phẩm táo.

15/08/2013