Đưa Vỏ Cà Phê Trở Lại Vườn Cây

Thực hành quy trình “Ứng dụng men vi sinh trong sản xuất phân hữu cơ sinh học từ nguồn vỏ cà phê” của Dự án Cạnh tranh nông nghiệp Lâm Đồng, nông dân Lâm Đồng đã và đang tiết kiệm đáng kể chi phí đầu tư các nguồn dinh dưỡng để chăm sóc cho cây trồng.
Lâm Đồng hiện có gần 140 ngàn ha cà phê kinh doanh, hàng năm thải ra khoảng 230 ngàn tấn vỏ khô (ước theo tỷ lệ nhân/vỏ là 3/2), trong đó chiếm khoảng 30% số lượng vỏ được xử lý bằng cách đốt bỏ hoặc đổ trực tiếp ra vườn cây; 70% số lượng vỏ còn lại được nông dân dùng trộn với phân chuồng và men vi sinh không rõ nguồn gốc để ủ làm phân nên chất lượng không cao.
Cách đây 1 năm, Dự án Cạnh tranh nông nghiệp Lâm Đồng đã phối hợp với Trung tâm Công nghệ Sinh học thuộc Đại học Tây Nguyên triển khai 42 điểm trình diễn quy trình sản xuất phân hữu cơ từ vỏ cà phê tại các vùng trọng điểm trồng cà phê của tỉnh Lâm Đồng gồm: Đức Trọng (8 điểm), Lâm Hà (11 điểm), Di Linh (10 điểm), Bảo Lâm (7 điểm), thành phố Bảo Lộc (6 điểm).
Tại mỗi điểm chọn mỗi hộ gia đình với diện tích trồng cà phê trên 1ha, có mặt bằng tối thiểu là 6m3 để ủ phân, nằm ở vị trí thuận lợi cho việc học tập, tham quan của những hộ nông dân khác trong vùng. Tất cả 42 hộ gia đình thực hiện mô hình đều được dự án hỗ trợ men vi sinh và bạt tủ; chỉ “đóng góp” phần còn lại gồm vỏ cà phê, công lao động phổ thông cùng các vật tư cần thiết khác…
Đi vào triển khai ủ phân trên mô hình điểm của mỗi hộ gia đình gồm các “vật liệu”: Vỏ cà phê khô (2.000 kg), phân chuồng (400 kg), đạm urea (20kg), lân VĐ (100 kg), phân KCl (40kg), vôi bột (40 kg), đường (3kg - đường cát vàng hoặc đường rỉ mật), men vi sinh (6kg). Mỗi mô hình huy động 4 người tưới nước, vun đống, đảo trộn, làm ẩm nguyên liệu... Ngoài ra còn phải trang bị các vật dụng khác như thùng chứa nước dung tích 200 lít, bạt tủ nguyên liệu 24m2 (4x6m), máy bơm nước, thùng tưới nước, cuốc, cào…
Từng mô hình thực hành theo các bước tuần tự từ hoạt hóa men (3kg men hòa tan với 150 lít nước sạch, 3 kg đường vàng và 300g phân urea) đến phối trộn nguyên liệu và ủ đống (vỏ cà phê được tưới nước bổ sung cho đạt độ ẩm khoảng 60%). Cuối cùng là công đoạn phối trộn men giai đoạn 2 (hòa tan 3 kg men giai đoạn 2 với nước sạch, tưới trộn đều nguyên liệu, bổ sung 20 kg KCl/tấn sản phẩm) và công đoạn đóng bao bảo quản (trong điều kiện râm mát hoặc trong nhà kho).
Sau từ 3- 3,5 tháng ủ phân hữu cơ từ vỏ cà phê theo các bước nêu trên cho thấy, mỗi mô hình đã “thu hoạch” từ 2,5 đến 2,8 tấn sản phẩm, giá trị đầu tư từ 1,1 - 1,3 triệu đồng/tấn, thấp hơn 2 triệu đồng/tấn so với giá phân bón vi sinh có cùng chất lượng trên thị trường. Dự án đã tập huấn quy trình kỹ thuật này cho 50 khuyến nông viên và 1.260 nông dân thuộc 5 huyện, thành phố trong vùng thực hiện mô hình, đồng thời tổ chức được 5 cuộc hội thảo với 300 nông dân tham gia.
Từ đó đến nay, Trung tâm Công nghệ sinh học thuộc Đại học Tây Nguyên đã cung cấp thông qua hệ thống khuyến nông tại các địa phương trong tỉnh Lâm Đồng với 10.000kg men vi sinh, tương đương với việc thực hiện trên 1.600 mô hình ủ phân từ vỏ cà phê theo quy trình đã triển khai điểm thành công. Hiện huyện Bảo Lâm đang tiếp tục triển khai mới 68 mô hình, huyện Đức Trọng đang phấn đấu triển khai đạt 100 mô hình vào năm 2014…
Như vậy với tổng khối lượng vỏ cà phê phế phẩm của tỉnh Lâm Đồng hàng năm khoảng 230 ngàn tấn, nếu sử dụng hết để ủ làm phân vi sinh hữu cơ, sẽ bón cho khoảng trên 57 ngàn ha cà phê (với lượng bón hơn 4 tấn/ha/ năm), nhân với mỗi tấn tiết kiệm khoảng 2 triệu đồng thì tổng số tiền “thu nhập tăng thêm” cho nông dân trên dưới 450 tỷ đồng/năm.
Bên cạnh đó, việc bón “phân vỏ cà phê” cho cây cà phê sẽ giảm lượng phân hóa học từ 20 - 30%, đồng thời tăng năng suất cà phê hiện tại lên từ 10 - 15%, (tức tăng khoảng 250 - 375kg cà phê nhân/ha), góp phần giảm thoái hóa, độ chua và độ chai cứng của đất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường bảo vệ được thiên địch và cân bằng sinh thái cho cây trồng
Có thể bạn quan tâm

Ở huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, nằm hai bên bờ sông Măng Thít, cách TP Vĩnh Long 32 km, cách TP Cần Thơ 28 km - từ lâu nổi tiếng thương hiệu cam sành ngọt lịm.

Tuy nhiên, do sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, chưa có quy hoạch vùng nguyên liệu ổn định; các đơn vị đăng ký thương hiệu còn ít. Phần lớn sản phẩm sản xuất ra chưa đáp ứng được tiêu chí về đăng ký bảo hộ thương hiệu; chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm; bao bì, nhãn mác đơn điệu, thiếu tính thẩm mỹ, chưa tạo được thiện cảm với người tiêu dùng; hoạt động quảng bá sản phẩm mới thực hiện trong phạm vi hẹp chứ chưa sâu rộng, đồng bộ… nên số lượng hàng hóa nông sản tiêu thụ tại thị trường lớn chưa nhiều, giá bán bấp bênh.

Giá khóm tại Tân Phước (Tiền Giang) hiện đang rớt giá mạnh khiến nhiều nông dân lo lắng. Qua khảo sát tại các điểm thu mua, giá khóm hiện chỉ trên dưới 1.000 đồng/kg nhưng lượng mua vào rất ít.

Theo ông Đinh Trung Kiên, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Vân Đồn (Quảng Ninh), nghề nuôi trồng tu hài đã phát triển nhiều năm nay ở địa phương. Đến nay, Vân Đồn đã có khoảng 100 hộ gia đình và 3 doanh nghiệp nuôi tu hài, thu hút một lượng lớn lao động và mang lại thu nhập khá cao cho ngư dân trong vùng.

Hiện cả nước có 6.000 cơ sở chế biến có công nghệ thiết bị tương đối hiện đại, trong đó, hơn 2.000 cơ sở chế biến nông sản, 570 cơ sở chế biến thủy sản và 3.000 cơ sở chế biến gỗ. Một số ngành đã đáp ứng được yêu cầu chất lượng đối với các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản…, điển hình như thủy sản, nhân hạt điều, hồ tiêu, đồ gỗ...