Chuồng Nuôi Heo Sinh Thái

Từ tháng 6.2013, Trung tâm Khuyến nông - khuyến ngư (KN-KN) tỉnh Quảng Nam phối hợp với Trạm Khuyến nông - khuyến lâm huyện Điện Bàn thí điểm mô hình nuôi heo thịt trên nền đệm lót sinh thái. Ông Lê Thương, Trưởng phòng Thông tin - huấn luyện (Trung tâm KN-KN tỉnh) cho biết, đệm lót sinh thái trên nền chuồng chăn nuôi chủ yếu sử dụng mùn cưa hoặc trấu. Mùn này đựơc rải lên nền chuồng, sau đó kết hợp với một lớp men vi sinh vật có ích.
Hệ men này nhằm phân giải chất thải do vật nuôi thải ra, hạn chế sinh khí hôi, thối; ức chế và tiêu diệt sự phát triển của hệ vi sinh vật có hại, khống chế sự lên men sinh khí hôi thối; phân giải một phần mùn cưa; giữ ấm cho vật nuôi. “Thông thường, các đệm lót lúc mới có sẽ là màu vàng, khi đã được vài năm sẽ chuyển sang màu đen và lúc nào cũng có hiện tượng lên men vi sinh vật. Nhờ thế mà tuổi thọ của nền chuồng đạt tới 4 năm, không phải thay thế” – ông Thương nói.
Gia đình ông Hồ Văn Chương (thôn 3, thôn Châu Bí, xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn) là hộ được chọn thí điểm mô hình này với các tiêu chuẩn như không nằm ở vùng thấp lụt, chuồng trại gắn liền với nhà, có hệ thống hầm biogas, không gian khép kín, vệ sinh sạch và đảm bảo môi trường. Đợt này ông đưa vào nuôi trên nền chuồng đệm lót sinh thái với diện tích 60m2, thả nuôi 45 con heo thịt.
Chuồng được xây gạch kiên cố trên nền đất, được bố trí máng ăn và hệ thống nước uống tự động được lắp đặt khoa học. Tổng kinh phí đầu tư 60 triệu đồng. “Loại chuồng được làm theo quy trình đệm lót sinh thái là loại chuồng khá lý tưởng cho việc nuôi heo, vì công nghệ này xử lý chất thải mà heo thải ra nhưng không đưa ra môi trường bên ngoài. Nuôi theo kiểu này rất sạch sẽ, chất thải không gây mùi hôi, không phải dội nước, đỡ hao tốn điện năng” - ông Chương thông tin.
Theo các cán bộ kỹ thuật Trung tâm KN-KN tỉnh, thời gian qua trung tâm đã đầu tư mô hình này ở 4 huyện trên địa bàn tỉnh gồm Đại Lộc, Điện Bàn, Phú Ninh và Duy Xuyên với tổng diện tích 1.600m2 cho 1.200 heo thịt, trung tâm hỗ trợ tối đa 40% quy trình gồm: cung cấp chế phẩm sinh học, bột bắp, trấu, mùn cưa, lập kế hoạch khảo sát chọn hộ, tập huấn hướng dẫn kỹ thuật làm đệm lót trực tiếp tại mô hình cho các hộ tham gia.
“Mô hình này đã được ứng dụng rộng rãi ở các tỉnh miền Tây từ năm 2010 như tỉnh Đồng Tháp đã đem lại hiệu quả cao. Tại Quảng Nam đây là lần đầu tiên thí điểm triển khai và nhân rộng, hy vọng sẽ đem lại nhiều lợi ích cho nông dân” - kỹ sư Phạm Thị Thu Thủy, Phòng Kỹ thuật - thông tin (Trung tâm KN-KN tỉnh) nói.
Có thể bạn quan tâm

Người nuôi và nhà sản xuất tôm ở ĐBSCL đã có sự bất bình trước thông tin Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã chính thức công bố phán quyết cuối trong vụ điều tra vụ kiện chống trợ cấp đối với mặt hàng tôm nước ấm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam. Đây là một sự áp đặt bất công với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu tôm Việt Nam, đồng thời cũng sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của hàng ngàn hộ nông dân sản xuất tôm.

Ngày 17/8, hơn 110 đại biểu đại diện lãnh đạo Sở NN&PTNT Cà Mau, các chi cục trực thuộc, Phân viện Nuôi trồng thuỷ sản 2, phòng nông nghiệp các huyện, 9 hợp tác xã nuôi tôm và những hộ nuôi tôm điển hình trên địa bàn tỉnh Cà Mau dự Hội thảo “Kết nối doanh nghiệp với người nuôi tôm” do Sở NN&PTNT phối hợp với tổ chức Quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (WWF) và Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV) thực hiện.

Thời gian vừa qua, đàn bò của nhiều hộ nông dân trên địa bàn huyện Khánh Vĩnh (Khánh Hòa) bị bệnh lở mồm long móng (LMLM). Trong khi cơ quan chức năng, chính quyền địa phương tìm mọi cách để khống chế dịch bệnh thì thương lái đã tìm đến các vùng đồng bào dân tộc thiểu số để mua bò với giá rẻ. Điều này gây thiệt đơn thiệt kép, không chỉ thiệt hại về kinh tế cho người dân mà còn khiến dịch bệnh lây lan.

Huyện Tuy An (Phú Yên) là địa phương có đàn bò nhiều nhất tỉnh, trong đó 71,5% là bò lai. Chăn nuôi bò đang mang lại nguồn thu nhập ổn định cho nhiều người dân.

Trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đặc biệt trong mùa hè tình hình thời tiết nắng nóng, hạn hán đã xảy ra nhiều nơi, nguồn nước sinh hoạt và phục vụ sản xuất ngày càng cạn kiệt, một số diện tích đất sản xuất lúa phải bỏ hoang, có diện tích sau khi gieo sạ một thời gian bị thiếu nước phải cắt làm thức ăn cho trâu bò, có diện tích bị cháy khô, số diện tích còn lại cho năng suất thấp, không hiệu quả trong sản xuất…