Chiêu Để Nông Dân Và Doanh Nghiệp Giữ Vững Liên Kết

Dù hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp (DN) được ký kết ngay từ đầu vụ nhưng đến khi thu hoạch, một trong hai bên có thể “bẻ kèo” khi giá lúa biến động nhiều. Để đảm bảo hợp đồng không bị phá vỡ, ngoài uy tín của DN, niềm tin của nông dân, vai trò điều tiết trung gian của ngành chuyên môn và chính quyền địa phương rất quan trọng.
Lợi ích thấy rõ
An Giang được biết đến là địa phương đi đầu trong cả nước về thực hiện mô hình “Cánh đồng lớn”. Năm 2014, có nhiều DN tham gia mô hình này với diện tích ước đạt 34.268 héc-ta. Hiệu quả của “Cánh đồng lớn” đã được chứng minh qua thực tiễn khi diện tích liên kết không ngừng tăng lên. Nếu như năm 2011 chỉ có 6.650 héc-ta thì năm 2012 tăng lên 2.950 héc-ta, năm 2013 là 34.000 héc-ta.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT), mô hình “Cánh đồng lớn” giúp cả “3 nhà” đều có lợi. Đối với nhà nông, gánh nặng về tài chính được giảm xuống khi họ không phải lo vay tiền mua vật tư phục vụ sản xuất vì đã được DN cung ứng từ đầu vụ, chỉ phải thanh toán vào cuối vụ (trừ vào tiền bán lúa).
Nhờ được hỗ trợ về kỹ thuật, thuận lợi trong áp dụng cơ giới hóa vào đồng ruộng nên đỡ thất thất thoát trong thu hoạch, giúp nông dân hạ giá thành sản xuất từ 10 – 20%, giảm ô nhiễm môi trường, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Đối với nhà DN, tham gia “Cánh đồng lớn” giúp hình thành vùng nguyên liệu ổn định, đảm bảo tiêu chuẩn hàng hóa về độ đồng đều, không lẫn tạp, tỷ lệ tấm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật…
Nhiều DN đã xây dựng được thương hiệu và uy tín nhờ “Cánh đồng lớn”, giúp tăng giá trị xuất khẩu gạo từ 15 – 30 USD/tấn so với sản phẩm cùng loại mua tự do trên thị trường. Đối với Nhà nước, việc tập hợp nông dân vào các hợp tác xã, tổ hợp tác để cùng gắn kết theo quy mô và chất lượng dễ dàng hơn do họ thấy được lợi ích chung.
Nhờ có “Cánh đồng lớn”, việc tuyên truyền, vận động nông dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước cũng thuận lợi, nhất là hoàn thiện hệ thống đê bao, giao thông nội đồng, hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới…
Câu chuyện về giá
Hiệu quả có thể nhận thấy nhưng tốc độ mở rộng diện tích “Cánh đồng lớn” vẫn chưa đạt mục tiêu như mong muốn. Nếu so với tổng diện tích lúa 628.769 héc-ta trong 3 vụ sản xuất của năm 2014 thì diện tích 34.268 héc-ta tham gia “Cánh đồng lớn” mới chiếm 5,45% - một tỷ lệ còn quá khiêm tốn.
Câu chuyện nhập nhằng giữa nông dân và DN chủ yếu xoay quanh về giá sau thu hoạch. Mặc dù có nhiều DN tham gia “Cánh đồng lớn” nhưng đến nay, chỉ có mỗi Công ty TNHH Angimex Kitoku (liên doanh giữa DN Nhật Bản – Việt Nam) là hợp đồng cụ thể giá bán với nông dân ngay từ đầu vụ.
Việc này cũng dễ hiểu bởi đối với lúa Nhật, nếu không biết trước giá bán, nông dân rất ngại tham gia vì đây là mặt hàng khá đặc biệt, khó bán tự do ra thị trường như các loại hàng hóa khác.
Là một nông dân từng tham gia liên kết sản xuất lúa giống, lúa hàng hóa với nhiều DN, ông Nguyễn Văn Bé Năm (ấp Trung Phú 4, xã Vĩnh Phú, Thoại Sơn), cho biết, đa phần các hợp đồng giữa DN và nông dân đều ghi phần giá thu mua là “căn cứ theo giá thị trường tại thời điểm”, cộng thêm từ vài chục đồng đến vài trăm đồng/kg lúa tùy theo thỏa thuận.
Mà “giá thị trường” lại khó xác định bởi căn cứ định giá chung vẫn chưa thống nhất. “Cách làm của nông dân nơi đây là trước thời điểm thu hoạch khoảng 4 – 5 ngày, công ty xuống thỏa thuận chốt giá với nông dân. Giá thị trường được tính bằng với giá thương lái thu mua tại các ruộng lúa gần đó. Việc chốt giá này có xác nhận của đại diện Ban ấp, nếu vài ngày sau giá lúa có lên xuống thì cũng không được thay đổi” – ông Bé Năm chia sẻ kinh nghiệm.
Những vụ gần đây, ông Bé Năm tham gia liên kết sản xuất với Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang. Khi gần đến thời điểm thu hoạch, công ty niêm yết giá công khai đối với từng loại lúa tại nhà máy và tổ chức ghe thu gom lúa tươi của nông dân. Sau khi đo độ ẩm, công ty sẽ trừ theo tỷ lệ phần trăm để quy thành lúa khô. Nếu nông dân chưa đồng ý bán có thể lưu kho miễn phí trong 1 tháng để chờ giá tốt hơn.
Trường hợp nông dân không hài lòng với giá công ty niêm yết, có thể bán cho thương lái. Cách làm này cũng giúp giữ mối quan hệ gắn kết giữa DN và nông dân.
Ông Đoàn Ngọc Phả, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT An Giang, cho biết, bên cạnh các DN làm ăn đàng hoàng, cũng có một số DN vì muốn có “vùng nguyên liệu” theo quy định, đã đề nghị ký hợp đồng sản xuất nhưng các điều khoản không chặt chẽ.
“Khi DN muốn liên kết, phải nói rõ cần loại giống gì, nhu cầu bao nhiêu, điều kiện sản xuất, cách thức thu mua thế nào thì chúng tôi mới đồng ý cho thực hiện” – ông Phả nhấn mạnh. Cũng có trường hợp đến thời điểm thu hoạch, nhiều thương lái vì muốn “phá” vùng nguyên liệu của DN, đến thu mua lúa của một vài hộ tham gia liên kết với giá cao để nông dân dựa vào đó kèo giá với DN. Khi DN không chịu mua, họ lại hạ giá xuống để ép nông dân.
“Đối với trường hợp này, địa phương chỉ cần yêu cầu nông dân đưa thương lái đến cùng tham gia định giá, đề nghị thương lái thu mua toàn bộ vùng nguyên liệu với giá cao như đã mua với vài hộ dân, đảm bảo thương lái sẽ “bỏ chạy”.
Khi việc định “giá thị trường” có sự tham gia của ngành chuyên môn và chính quyền địa phương, nông dân và DN sẽ dễ đạt được thỏa thuận, liên kết hợp tác cũng bền vững hơn” – ông Phả chia sẻ.
Có thể bạn quan tâm

Thời gian gần đây, người dân ở xã Long Thạnh, huyện Phụng Hiệp đã mạnh dạn chuyển đổi diện tích đất trồng cây kém hiệu quả sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế, góp phần cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập của nhiều hộ dân.

Thông qua trung tâm nông nghiệp huyện, từ đầu năm đến nay, ngân sách nhà nước đã hỗ trợ người dân trên địa bàn huyện Đam Rông phát triển sản xuất, chăn nuôi trong các chương trình dự án lên đến trên 3,996 tỷ đồng, bao gồm: Chương trình trợ giá cây giống cà phê Robusta, sầu riêng giống mới cho người dân các xã Đạ Tông, Đạ M’rông, Liêng S’rônh, Rô Men, Phi Liêng, Đạ K’Nàng, với tổng kinh phí 322,5 triệu đồng;

Thôn Ánh Mai 3 (xã Lộc Châu, TP Bảo Lộc) được nhiều người quen gọi là “Xóm Ao”. Bởi tại đây có rất nhiều nông hộ đang triển khai thực hiện có hiệu quả mô hình thả cá kết hợp chăn nuôi, với khoảng 10ha diện tích ao hồ. Trong số đó có anh Nguyễn Phúc Lợi.

Trong những năm gần đây, sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Sơn có nhiều chuyển biến tích cực. Toàn huyện có hơn 40 nghìn ha rừng được bảo vệ và phát triển tốt. Mỗi năm huyện trồng mới hàng nghìn ha rừng, góp phần giữ ổn định tỷ lệ che phủ rừng.

Thời gian qua, chuối trồng ở các xã An Lĩnh, An Xuân, An Thọ (huyện Tuy An) bị bệnh rũ lá, sau đó chết khô mà không biết nguyên nhân. Xung quanh vấn đề này, Báo Phú Yên phỏng vấn thạc sĩ Đặng Văn Mạnh, Phó chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ thực vật Phú Yên.