Chè xuất khẩu bị từ chối hệ lụy từ những bất cập

Bất cập từ nhiều phía
3 container chè XK từ Việt Nam sang Đài Loan vừa bị trả lại do lượng tồn dư thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) vượt quá mức cho phép.
Đây không phải là lần đầu chè Việt Nam gặp phải tình trạng này. Năm 2012, đã có nhiều lô hàng chè XK sang châu Âu phạm lỗi trên buộc phải “hồi hương”. Phần lớn số chè bị trả lại đều bị tồn dư 2 hoạt chất thuốc BVTV là Acetamiprid và Imidacloprid vượt quá mức cho phép. Theo đánh giá của Hiệp hội chè Việt Nam (Vitas), có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng tựu trung lại là do DN chế biến XK, người trồng chè và các cơ quan quản lý.
Thực tế, các DN sản xuất chè của Việt Nam từ nhiều năm nay tập trung vào khâu chế biến thô và tổng công suất chế biến cao hơn khả năng cung ứng nguyên liệu từ 2 - 3 lần. Theo thống kê sơ bộ của Vitas, cả nước đang có khoảng 450 cơ sở, nhà máy chế biến chè (có đăng ký) nhưng chỉ có khoảng 10% trong số này có vùng nguyên liệu riêng. Phần lớn nguyên liệu được các thương lái thu mua từ nhiều nguồn và cunng ứng cho các cơ sở chế biến. Chính tình trạng này đã dẫn việc nguyên liệu chè khó xác định được nguồn gốc và nồng độ thuốc BVTV.
Một nghịch lý đang diễn ra là DN đầu tư cho nông dân thì lại ít có cơ hội mua được nguyên liệu vì có nhiều DN khác tranh mua. Điều này khiến các DN “nản” trong việc đầu tư vốn vào xây dựng các” cánh đồng chè” lớn, các vùng nguyên liệu chất lượng cao hay bảo trợ về giống, kỹ thuật cho người nông dân.
Việc quản lý đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến theo đúng quy định của pháp luật cũng vẫn còn nhiều thiếu sót. Hiện nay, theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về Cơ sở chế biến chè - điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (Ký hiệu: QCVN 01 - 07: 2009/BNNPTNT) thì địa điểm xây dựng cơ sở chế biến chè phải đáp ứng được hai tiêu chí: Nhà xưởng phải được xây dựng theo quy hoạch của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải gắn với vùng nguyên liệu để đảm bảo có đủ nguyên liệu cho hoạt động. Tuy nhiên, không phải cơ sở DN nào cũng đáp ứng được những yêu cầu này.
Cần sớm có các biện pháp khắc phục
Tuy tỷ lệ chè bị trả lại rất nhỏ so với tổng lượng và giá trị chè XK của Việt Nam thời gian qua nhưng đã làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh các DN chè Việt Nam, đến uy tín của ngành chè và thậm chí đến ngành nông nghiệp Việt Nam. Nếu tình trạng chè bị trả lại vẫn còn tiếp tục diễn ra, thương hiệu chè Việt sẽ rất khó có thể thay đổi được hình ảnh “xấu” trong mắt các đối tác quốc tế.
Trước tình trạng này, Vitas đã khuyến cáo các hội viên về điều kiện tối thiểu để tồn tại và phát triển bền vững là phải kiểm soát được số lượng, chất lượng và ATTP của nguyên liệu. DN trên từng địa bàn phải ngồi lại với nhau, cùng phân chia vùng nguyên liệu để đầu tư dưới sự chủ trì, quản lý và chỉ đạo của chính quyền địa phương, đồng thời triển khai thực hiện Quyết định số 62/2013/QĐ - TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng (chè) lớn.
Bên cạnh đó, cần sự vào cuộc gắt gao của không chỉ người dân, DN mà còn các cơ quan chức năng như: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương …để có sự quản lý đồng bộ, thống nhất về pháp luật, quy hoạch và chính sách. Bản thân các địa phương cũng phải sự có sự quy hoạch sắp xếp lại toàn bộ ngành chè, gắn nhà máy với vùng nguyên liệu. Đồng thời, chỉ cấp phép đầu tư cho những cơ sở chế biến chè theo đúng quy chuẩn.
Có thể bạn quan tâm

Thế nhưng, cuộc sống ngày càng phát triển, người ta không còn chọn xích lô để làm phương tiện đi lại nên công việc của ông ngày càng khó khăn. Ông nói: “Lúc đó tôi muốn về quê, nhưng nghĩ lại, phải kiếm cái nghề gì đã. Rồi tôi theo mấy người bạn của mình đi học cách chăn nuôi bò, vì nghĩ về quê thì chăn nuôi là hợp lý nhất”. Sau những tháng ngày học hỏi và tích góp kiến thức cũng như kỹ thuật nuôi bò, ông Nông khăn gói về quê.

Dự án “Ứng dụng kết quả nghiên cứu lai tạo giống bò BBB trên nền bò cái lai Sind thành đàn bò lai F1 hướng thịt trên địa bàn TP Hà Nội” được UBND thành phố phê duyệt tháng 2 - 2012 và giao Công ty TNHH MTV Giống gia súc Hà Nội (công ty) làm chủ đầu tư. Sau hơn hai năm thực hiện bước đầu đã đạt kết quả khả quan.

Chị Chuẩn lý giải rất hợp lý: Chăn nuôi trâu bò, đòi hỏi phải có nhiều vốn và điều kiện chăn thả cũng cần được tính toán kỹ lưỡng. Trong khi đó, chỉ cần tầm 7 triệu đồng là đã có một cặp dê giống. Hơn nữa, dê còn có khả năng kháng bệnh cao và không chiếm quá nhiều diện tích đất làm chuồng trại, nên mô hình này rất phù hợp với những ai ít vốn hoặc những người mới bắt đầu khởi nghiệp.

Vừa dẫn chúng tôi tham quan một vòng quanh trang trại, anh Võ Văn Lựu vừa hồ hởi cho biết: Lớn lên trên vùng đất Tú Loan (xã Quảng Hưng, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình), chứng kiến cảnh người dân quanh năm vất vả với độc canh cây lúa, đất cằn nên cuộc sống cứ mãi chật vật. Trăn trở để tìm hướng đi mới, cuối cùng anh nhận thấy điều kiện đất đai ở đây với diện tích đất hoang hóa còn lại khá nhiều, cộng với nhiều trảng cát rộng, rất phù hợp cho chăn nuôi đà điểu.

Hiện nhiều hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Bình Phước đang nuôi hươu lấy nhung để phát triển kinh tế. Nhiều hộ thu nhập vài trăm triệu đồng mỗi năm từ mô hình này. Thu gần 200 triệu đồng/năm chỉ từ 12 con hươu của gia đình ông Nguyễn Viết Long ở ấp 54, xã Lộc An (Lộc Ninh) là minh chứng.