Chế Biến Cá Khô - Nỗi Trăn Trở Vươn Xa

Chế biến cá khô - Nỗi trăn trở vươn xa
Chế biến cá khô là một công đoạn đòi hỏi đầu tư nhiều công phu. Tâm huyết của người làm thể hiện qua các bí quyết làm nên chất lượng, hương vị đặc sắc ở con cá khô thành phẩm.
Xã Bình Thắng (Bình Đại - Bến Tre) có trên 70% dân số sống bằng nghề đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và chế biến cá khô. Trong đó, chế biến cá khô là một trong hai nghề truyền thống luôn được duy trì và không ngừng phát triển. Làng nghề truyền thống chế biến cá khô được UBND tỉnh công nhận vào năm 2007, tạo việc làm cho người lao động và kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm trên 2%.
Làng nghề thuộc địa bàn ấp 1, 2, 3 và 4 của xã Bình Thắng. Trước đây, làng nghề có 31 hộ trực tiếp sản xuất và mua bán, đến nay chỉ còn 21 hộ sản xuất với quy mô lớn, cung ứng cho thị trường trên 1.200 tấn cá khô/năm. Theo thống kê năm 2012, thu nhập bình quân của lao động trong làng nghề khoảng 21 triệu đồng/người/năm. Do có nguồn nguyên liệu dồi dào tại chỗ, thị trường tiêu thụ rộng và cơ bản ổn định nên làng nghề truyền thống cá khô phát triển về quy mô sản xuất, đa dạng về chủng loại sản phẩm, từng bước đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh.
Hiệu quả là vậy. Tuy nhiên, số hộ chế biến cá khô trong làng đã giảm đáng kể. Anh Nguyễn Đức Toàn - cán bộ xã trăn trở: Trong tương lai, e rằng nghề này mai một.
Cái tên Xóm Mới có được từ hồi người dân nơi đây thoát cảnh khốn khó, nghèo túng nhờ con cá khô. Vì thế, khi nói đến tương lai, người trong làng tin tưởng lẫn tự hào vào truyền thống làm khô. Có thể hộ này ngưng để chuyển cho hộ khác làm. Người làm công tại các cơ sở chế biến sẽ là đối tượng kế thừa. Người dân địa phương đã từng bước đưa máy móc, thiết bị vào sản xuất để hạn chế mức độ lệ thuộc vào thời tiết. Một số hộ đã đầu tư nâng cấp sân phơi, giàn phơi, thùng đựng theo hướng an toàn vệ sinh thực phẩm.
Vấn đề hiện nay là cần sự hỗ trợ đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng nhằm tạo sự đồng bộ và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. Mặc dù đã có tiếng tăm về uy tín, chất lượng sản phẩm nhưng cá khô của làng nghề vẫn chưa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu hoặc vào hệ thống các siêu thị.
Xét trên địa bàn toàn tỉnh, chỉ có cơ sở sản xuất cá khô Tư Rành (Ba Tri) đã tiến xa hơn một bước so với nhiều cơ sở sản xuất cá khô. Đó là cơ sở đóng gói sản phẩm và có ghi tên tuổi, địa chỉ sản xuất. Khô Tư Rành cũng được quảng bá, giới thiệu tại các hội chợ thương mại do tỉnh tổ chức. Cơ sở này vẫn còn phải quan tâm hơn đến nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng đó là hạn sử dụng, là chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm… Làng nghề truyền thống chế biến cá khô Bình Thắng có sản phẩm đa dạng, gồm: khô mặn, khô tẩm gia vị và tôm khô. Khô được sản xuất theo phương pháp truyền thống nên chất lượng là nguyên chất, đậm đà. Nỗi trăn trở lớn nhất hiện nay của người làm cá khô là sản phẩm chưa có bao bì, nhãn hiệu để được nâng cao giá trị và được bảo hộ trên thị trường.
Chỉ khi đạt được mong mỏi đó, người chế biến cá khô mới thật sự an tâm vào sản phẩm của mình, đẩy mạnh phát triển sản xuất, nâng cao tay nghề, góp phần phát triển kinh tế địa phương.
Có thể bạn quan tâm

Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, tổng kim ngạch XNK hai chiều giữa Việt Nam và Mexico 3 quý đầu năm 2014 gần đạt ngưỡng 1 tỉ đô la Mỹ, ước đạt 986 triệu USD, tăng 45% so với cùng kỳ 2013.

Lọt vào nhóm các ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu (XK) “tỷ đô” mỗi năm, tuy nhiên, XK rau quả của Việt Nam vẫn chưa xứng với tiềm năng. Đặc biệt, ở những thị trường lớn như Nhật Bản, Hoa Kỳ, thị phần rau quả Việt còn rất hạn chế.

Đơn cử như Huyện hội thì phối hợp với Trung tâm dạy nghề mở các lớp dệt thổ cẩm cho phụ nữ dân tộc thiểu số và vận động 12 chị tham gia các lớp cạo mủ cao su, tin học. Hội phụ nữ các xã Đắk D’rô, Tân Thành mở được 2 lớp xóa mù chữ cho 47 hội viên, phụ nữ dân tộc, tôn giáo.

Hiện ở nước ta có nhiều vùng trồng mắc ca, song chủ yếu tập trung ở vùng Tây Nguyên và Tây Bắc. Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp, tổng diện tích trồng mắc ca tại Tây Nguyên là 1.645 ha, Tây Bắc, diện tích rừng trồng mắc ca chưa lớn, chủ yếu tập trung tại Sơn La, Điện Biên và một số tỉnh đang trồng thử nghiệm.

Trong rất nhiều nguyên nhân khiến tiến độ giao đất giao rừng trên địa bàn huyện Điện Biên chậm phải kể đến những khó khăn, vướng mắc trong khâu tổ chức họp dân tuyên truyền để bà con nhận khoanh nuôi bảo vệ rừng. Nếu như ở một số địa bàn khác người dân tích cực phối hợp, nhận khoán khoanh nuôi bảo vệ rừng, thì tại bản Nậm Ty 1, Nậm Ty 2, xã Hua Thanh dù đến nay đã qua vài ba lần họp dân, nhưng rừng vẫn chưa thể giao cho cộng đồng!