Chất Lượng Quy Hoạch

Nội dung đầu tiên của Nghị định 36 về cá tra là "quy hoạch nuôi". Quy hoạch phải "phát huy lợi thế và tiềm năng của từng địa phương, phù hợp với khả năng tiêu thụ cá tra trên thị trường". Trên cơ sở hiện trạng, "phân tích, đánh giá, dự báo nhu cầu, giá cả và khả năng cạnh tranh của cá tra", từ đó "xác định diện tích, sản lượng của vùng nuôi cá tra thương phẩm". Tóm lại, quy hoạch phải phù hợp với điều kiện của từng địa phương và nhu cầu của thị trường.
Cuộc khủng hoảng cá tra kéo dài mấy năm nay, theo nhiều chuyên gia là do phát triển tự phát "vượt quá quy hoạch". Tuy nhiên, thực tế, diện tích và sản lượng cá tra ở ĐBSCL những năm qua chưa bao giờ đạt được theo quy hoạch năm 2008, nhưng vẫn vượt quá nhu cầu của thị trường; điều này chứng tỏ chất lượng quy hoạch thấp. Còn nói như Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản, TS Nguyễn Thanh Tùng, là do "quy hoạch duy ý chí".
Quy hoạch năm 2008 đề ra diện tích nuôi cá tra của năm 2010 là 8.600 ha, năm 2015 hơn 11.000 ha. Thực tế, những năm qua, chưa năm nào diện tích đạt tới 6.000 ha nhưng sản lượng cá tra đã vượt quá nhu cầu thị trường. Năm 2013, diện tích chỉ 5.050 ha, sản lượng hơn 1,1 triệu tấn.
Như thế, vấn đề đặt ra hiện nay là quy hoạch phải sát thực tế hơn, có chất lượng cao hơn. Viện trưởng Tùng thừa nhận, quy hoạch "rất phức tạp" vì phải kế thừa tất cả thuận lợi và khó khăn của thực trạng duy ý chí trước đây để lại. Dự thảo quyết định của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về quy hoạch nuôi cá tra đặt mục tiêu: Diện tích năm 2015 hơn 5.200 ha và đến năm 2020 hơn 7.200 ha. Sản lượng tương ứng là 1,2 triệu tấn và 1,6 triệu tấn. Ba địa phương có diện tích nuôi cá tra lớn nhất là Đồng Tháp, An Giang và TP Cần Thơ.
Xác định diện tích nuôi dựa vào thực trạng và tiêu chí thổ nhưỡng: gần sông lớn, không có phèn tiềm tàng, không bị ngập vào mùa mưa và không thiếu nước vào mùa khô. Dự kiến vùng quy hoạch nuôi cá tra tập trung trên các cù lao lớn giữa sông Tiền và sông Hậu, ven hai con sông này không quá 500 mét hoặc không quá 400 mét ven các nhánh của hai con sông. Theo dự thảo, đó là những vùng nuôi tối ưu khai thác có hiệu quả tiềm năng.
Tuy nhiên, tại cuộc hội thảo về quy hoạch nuôi cá tra do Tổng cục Thủy sản tổ chức ngày 10/7, ở TP Cần Thơ, có một số ý kiến từ thực tế rất đáng xem xét để đảm bảo quy hoạch có chất lượng cao.
Ông Trần Văn Hùng, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Hùng Cá (Đồng Tháp) cho biết, trước đây, đào ao ở các hòn cù lao giữa sông và ven bờ sông Hậu, sông Tiền nuôi cá tra đạt hiệu quả cao, còn bây giờ hao hụt đến 40 - 50%, nuôi kéo dài 8 - 9 tháng.
Ông Hùng phân tích, mấy chục cây số sông Tiền và sông Hậu không còn kiểm soát được tình hình ô nhiễm, nhất là càng về hạ lưu thì triều cường khiến chất thải từ thượng nguồn không thoát hẳn được ra biển. "Doanh nghiệp chạy xa sông cả rồi. Tôi có 42 ha ngoài đó cũng đang phải chuyển vào nội đồng, trong này giống chỉ hao hụt 10 - 20%, nuôi 6 tháng đã thu hoạch vì kiểm soát được môi trường", ông Hùng nói.
Có thể bạn quan tâm

Hiện tại, bà con vùng màu của huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) đang vào mùa thu hoạch rộ khoai môn và củ kiệu. Theo phản ánh của bà con nông dân, do năm nay thời tiết không thuận lợi nên năng suất của kiệu và khoai môn giảm trung bình từ 20 – 30% so với cùng kỳ năm trước.

Năm nay, do những thông tin rau quả nhập từ Trung Quốc không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm nên kim ngạch nhập khẩu rau quả từ quốc gia này trong 11 tháng của năm 2014 ở mức gần 136 triệu đô la Mỹ, bằng 95% cùng kỳ năm 2013. Thái Lan trở thành quốc gia mà Việt Nam nhập khẩu rau quả lớn nhất với giá trị đạt gần 140 triệu đô la Mỹ trong 11 tháng của năm nay, tăng 52% so với cùng kỳ năm trước và chiếm hơn 29% thị phần.

Các vụ lúa gần đây bệnh vi khuẩn bộc phát mạnh, gây hại nặng làm tăng chi phí sản xuất, giảm năng suất lúa. Tham dự sự kiện này, nông dân được tham quan 4 trại trưng bày mẫu vật bao gồm các mẫu lúa bị nhiễm bệnh, hướng dẫn cách nhận diện chính xác triệu chứng các bệnh do nấm, do vi khuẩn, biện pháp chủ động phòng trị hiệu quả, an toàn và nhận dạng thuốc bảo vệ thực vật chính hiệu, hạn chế tình trạng mua nhầm hàng kém chất lượng.

Năm 2014 được đánh dấu là năm có chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt cao nhất trong “lịch sử” xuất khẩu của Gia Lai. Những mặt hàng chủ lực của tỉnh luôn giữ vị trí cao với sản lượng xuất và thị trường ổn định, trong đó phải kể đến cà phê-mặt hàng chiếm tỷ trọng cao nhất với 77,8% tổng kim ngạch...

Đến giờ này, câu chuyện thoát nghèo của ông Út được bà con trong vùng vẫn truyền tai nhau với sự nể phục. “Nói thật, đôi lúc tôi cứ nghĩ mình nằm mơ. Lúc bắt tay trồng nấm, tôi chỉ nghĩ đơn giản là có cái nghề để thoát nghèo và đã cố gắng hết sức. Ông trời quả không phụ lòng người” - ông Út thổ lộ.