Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Chăm Sóc Tôm Thẻ Khi Thời Tiết Bất Lợi

Chăm Sóc Tôm Thẻ Khi Thời Tiết Bất Lợi
Ngày đăng: 15/05/2012

Hiện nay đang là thời điểm thả giống và chăm sóc tôm một tháng tuổi, tuy nhiên thời tiết diễn biến rất phức tạp. Vì vậy, bà con nuôi TTCT nên lưu ý một số vấn đề sau đây.

Kiểm soát tảo đáy

Nguyên nhân xuất hiện tảo đáy là ở những ao có nước thấp (

Biện pháp xử lý tảo đáy hiệu quả nhất là dùng thanh kim loại thẳng, nặng (có thể cột thêm đá), cột dây hai đầu, đặt sát đáy ao để kéo tảo đáy ra khỏi ao, dùng vợt vớt những tảo đáy nổi chết mặt nước, ở cuối ao, tránh để chìm lại xuống ao. Sau đó nâng mực nước ao lên >1m và gây lại màu nước, giúp tảo phát triển tạo màng che ngăn chặn sự chiếu sáng của mặt trời xuống đáy ao, đạt độ trong khoảng 30-40cm. Khi thiếu ánh sáng, tảo đáy sẽ tàn lụi dần và không phát triển nữa.

Trong xử lý tảo đáy nên bổ sung thêm Vitamin C vào thức ăn để giúp tôm tăng sức đề kháng, sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý nền đáy.
 
Quản lý ao nuôi

Duy trì mực nước đạt 1,2-1,5m để ổn định nhiệt độ nước.

Độ trong: 30-40cm để hạn chế hiện tượng tảo tàn. Nếu độ trong lớn hơn 40cm, bổ sung phân có tỷ lệ: 0,5kg DAP + 0,25kg urê/1.000m3 vào lúc nắng ấm. Nếu độ trong nhỏ hơn 20cm (tảo đậm): giảm lượng thức ăn, sử dụng formol 2-3lít/1.000m3 (tính cho cả ao), tạt vào khu vực góc ao, cuối hướng gió. Sau đó, nâng mức nước thêm từ 15-20cm.

Độ pH: Hàng ngày, kiểm tra pH vào thời điểm 6 giờ và 14 giờ, pH dao động trong ngày không quá 0,5 đơn vị. Duy trì trong ngưỡng thích hợp (7,5-8,5), nếu thấp hơn 7,5 vào buổi sáng, bón vôi CaCO3 7-10 kg/1.000m3.

Độ kiềm: Kiểm tra độ kiềm 1 lần/tuần vào lúc 14 giờ, duy trì 80-120mg CaCO3/l. Khi tôm lột xác, kiểm tra độ kiềm để bổ sung vôi kịp thời.

Sử dụng men vi sinh: Trong giai đoạn đầu nên sử dụng men vi sinh có thành phần chính là nhóm Bacillus (B.licheniformis, B.megaterium, B. polymyxa…) giúp giảm tảo do vừa sử dụng trực tiếp chất hữu cơ trong ao, vừa khử Nitrate thành Nitơ dạng khí thoát ra ngoài, làm giảm muối dinh dưỡng trong ao.

Khi sử dụng men vi sinh nên lưu ý đến khả năng gây thiếu ôxy, pH dao động lớn vào thời gian các vi khuẩn hiếu khí hoạt động mạnh, đặc biệt là vào thời điểm sáng sớm, dễ gây sốc và làm chết tôm.
 
Chăm sóc và cho ăn

Khi tôm mới thả, cho ăn 0,8-1 kg thức ăn công nghiệp/10 vạn post/ngày, sau đó cứ 2 ngày tăng 0,2-0,3 kg/10 vạn. Nên cho tôm ăn vào các thời điểm nắng ấm, giảm lượng thức ăn khi trời âm u, nhiệt độ thấp trong ngày. Những ngày thời tiết lạnh, giảm 20-30% lượng thức ăn. Khi tôm đạt 20 ngày, ăn khoảng 4-5 kg thức ăn/10 vạn/ngày.

- Sử dụng nhá (sàng) để quản lý thức ăn. Khi tôm đạt 20-25 ngày tuổi, lượng thức ăn cho vào nhá theo tỷ lệ: 1,5-2% lượng thức ăn thực tế. Do tôm bắt mồi chậm nên sau thời gian khoảng 2 giờ 30 phút, tiến hành kiểm tra nhá.

- Tùy theo lượng thức ăn còn lại, số lượng tôm vào nhá (phản ánh thời gian sử dụng thức ăn) mà điều chỉnh lượng thức ăn cho lần kế tiếp. Thời gian đầu sử dụng nhá có ý nghĩa hơn trong việc dự đoán tỷ lệ sống (nếu tôm lớn quá mức bình thường, thức ăn dư có thể tôm bị “hao”) và tình hình sức khỏe tôm nuôi (quan sát ngoại hình) qua nhá vì chưa chài tôm được.

- Bổ sung thêm vào thức ăn men tiêu hóa và Vitamin C nhằm ngăn ngừa vi khuẩn gây bệnh trong đường ruột tôm, giúp tôm tiêu hóa và ăn nhiều hơn theo tỷ lệ: 3g men tiêu hóa + 1g Vitamin C/ 1kg thức ăn.

Khi tôm đạt từ 1 tháng tuổi, hạn chế chài tôm mà thông qua nhá kiểm tra, đánh giá sức khỏe tôm nuôi. Căn cứ vào các đặc điểm như kích cỡ (đồng đều), màu sắc vỏ (sáng, sạch), đường ruột (to, đầy thức ăn), màu phân… để có biện pháp xử lý.
 
Phòng, trị bệnh

Các biện pháp kỹ thuật cần lưu ý:

- Tăng cường sử dụng men vi sinh để ổn định môi trường.

- Nếu tôm có biểu hiện bệnh đường ruột (không đầy thức ăn, phân đứt quãng), nên dùng kháng sinh Cotrim-forte 1 viên/ 1kg thức ăn/2 lần/ngày, trong 7 ngày. Lưu ý, không kết hợp men vi sinh với thuốc kháng sinh khi cho ăn.

- Khi tôm có biểu hiện “đóng rong”, khác với tôm sú (trên vỏ, chân), TTCT thường ở vị trí chân hàm, nên xử lý nước bằng BKC vào lúc có nắng hoặc OLAN vào chiều tối, tăng cường ôxy.

- Khi ao nuôi có dấu hiệu dịch bệnh (tôm vào bờ hàng loạt, chết đáy), tiến hành niêm cống, đồng thời thông báo cho các cơ quan chức năng xử lý đúng theo quy trình. 

Có thể bạn quan tâm

Nuôi Hươu Lấy Nhung Hướng Đi Mới Cho Nhà Nông Nuôi Hươu Lấy Nhung Hướng Đi Mới Cho Nhà Nông

Nuôi hươu lấy nhung đang là mô hình khá mới ở tỉnh Gia Lai. Được triển khai từ đầu năm 2013 tại huyện Chư Pah (thuộc dự án ứng dụng khoa học công nghệ cấp huyện), đến nay, mô hình này đã bước đầu cho thấy những hiệu quả nhất định, tạo sự phấn khởi nơi người chăn nuôi.

11/07/2014
Hợp Tác Xã Chè Lương Sơn Phát Huy Sức Mạnh Tập Thể, Đẩy Mạnh Sản Xuất Kinh Doanh Hợp Tác Xã Chè Lương Sơn Phát Huy Sức Mạnh Tập Thể, Đẩy Mạnh Sản Xuất Kinh Doanh

Được thành lập năm 2001, Hợp tác xã (HTX) chè Lương Sơn (huyện Yên Lập) có 237 xã viên. Sau nhiều năm củng cố, đổi mới phương thức hoạt động, đến nay mô hình kinh tế tập thể của HTX Lương Sơn đã phát huy thế mạnh trong việc liên kết và là điểm tựa vững chắc cho các hộ gia đình xã viên phát triển sản xuất - kinh doanh chè.

03/12/2014
Nông Dân Thị Xã Ngã Năm Bước Vào Mùa Năn Nông Dân Thị Xã Ngã Năm Bước Vào Mùa Năn

Theo anh cho biết, vụ rồi chỉ trồng được 4 công nhưng thu nhập gấp 4 lần so với trồng lúa nên năm nay gia đình tiếp tục chuyển thêm 3 công đất nữa để trồng năn bộp. Hiện tại, hàng ngày gia đình anh nhổ được gần 50 – 60 kg năn, với giá bán cho thương lái mua tại đồng là 6.000 đồng/kg, trừ các khoản chi phí thu nhập cũng được từ 300 – 400 ngàn đồng/ngày.

11/07/2014
Rà Soát, Thống Kê Diện Tích Bưởi Các Loại Trên Địa Bàn Toàn Tỉnh Rà Soát, Thống Kê Diện Tích Bưởi Các Loại Trên Địa Bàn Toàn Tỉnh

Thực hiện chương trình phát triển cây ăn quả của tỉnh giai đoạn 2012 – 2015, đến nay diện tích bưởi Diễn toàn tỉnh đạt 741,7ha, bưởi Đoan Hùng đạt 1.015ha, sản lượng năm 2014 của các giống bưởi trên đạt gần 12 nghìn tấn, tổng giá trị thu nhập ước đạt trên 170 tỷ đồng. Nhiều hộ đã có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm.

03/12/2014
Nông Dân Làm Khuyến Nông Nông Dân Làm Khuyến Nông

Thiết nghĩ, giữa lúc nhiều mô hình khuyến nông dù hiệu quả nhưng phải “tắt” ở khâu thí điểm vì thiếu kinh phí thì, cách làm của ông Khanh, ông Thân thật có sức hút và dễ lan tỏa bởi công việc cụ thể, hiệu quả thực tế. Thế nên không chỉ ông Thinh, ông Pha Răng mà còn rất nhiều nông dân trong tỉnh đã đổi đời nhờ cái cách “khuyến nông rất nông dân” ấy.

03/12/2014