Chăm Sóc Khai Thác Dừa Nước Nam Bộ

Khai thác dừa nước là một truyền thống lâu đời ở Đông Nam Á khi mà một bộ phận khá lớn cư dân các vùng duyên hải Tây Thái Bình Dương lấy nước dừa làm nguồn thu nhập chính. Ở Philippines, 93% cồn và rượu được sản xuất chủ yếu từ dừa nước trong năm 1910, sản lượng lúc đó đã lên đến 90.000 lít (Gibbs, 1911). Giấm dừa nước là nguyên liệu tuyệt vời chế biến các món ăn hấp dẫn nơi các nhà hàng Thái Lan và Philippines. Ở Malaysia, đường dừa nước có vị thơm ngon là một mặt hàng xuất khẩu. Ở nước ta, nông dân ngày nay mới chỉ sử dụng trái để ăn và lá để lợp nhà hay làm củi, không mấy ai biết đến kỹ thuật rút nhựa dừa nước từ cuống hoa để nấu đường, ủ rượu, làm bia, lên men giấm, chưng cất cồn và một loạt sản phẩm có giá trị khác.
Chính đây là nguồn thu nhập có hiệu quả nhất của dừa nước. Sản lượng đường dừa nước trung bình 20,3 tấn/ha (Kiew, 1989) so với đường mía trong khoảng từ 5 đến 15 tấn/ha (Khieu, 1995). Hamilton và Murphy (1988) so sánh 5 nguồn cung cấp năng lượng thực vật, tính trên sản lượng cồn cất được, gồm khoai lang đạt mức 6.750 đến 18.000 lít/ha, dừa nước 6.848 đến 15.600 lít/ha, dừa 5.000 lít/ha, sắn (khoai mì) 3.240 đến 6.700 lít/ha và mía 3.350 đến 6.700 lít/ha, đã nhấn mạnh rằng dừa nước là nguồn cung cấp năng lượng thực vật tốt nhất, xét cả về mặt sản lượng và quản trị khai thác.
Cây dừa nước mọc thành đám. Lá và hoa đâm lên từ thân ngầm dạng củ (rhizome) nên chiều cao các rừng dừa nước khá đồng nhất, ít khi vượt quá 4 mét. Chiều cao này rất lý tưởng để thiết lập các vùng đệm canh phòng và chống cháy giữa các rừng sác hoặc rừng tràm như ở Cần Giờ, U Minh Thượng và U Minh Hạ. Phải đến năm thứ 4 hoặc thứ 5 cây mới đơm hoa cho trái. Thời gian này sẽ kéo dài cho đến năm thứ 55 trở lên, nghĩa là mỗi cây dừa nước có thể khai thác liên tục trên 50 năm (Magalon, 1930). Các bông dừa nước ở Nam bộ và Nam Trung bộ đâm lên rất mạnh, nằm trên đầu một cuống hoa dài từ 1,2 đến 1,6 mét tính từ mặt đất.
Cây dừa nước mạnh khỏe cho hoa quanh năm, có thể đạt đến 26 bông mỗi cây một năm (Kiew, 1989). Để lấy nhựa dừa nước, người ta chọn 2 bông thật tốt trên mỗi cây rồi làm dập cuống hoa cho nhựa rỉ ra, chảy vào đồ hứng treo sẵn trên cây. Mỗi ngày hai lần, người ta dùng dao sạch cắt bỏ một lát mỏng 2mm trên đầu cuống để nhựa cây chảy ra liên tục, bằng cách này các bông dừa luân phiên cho nhựa quanh năm và người lao động không gặp phải cảnh nông nhàn kéo dài.
Trên thực tế, nhựa dừa nước rỉ ra nhiều hay ít, thời gian thu nhựa của mỗi cuống dài hay ngắn, tùy thuộc rất lớn vào kỹ thuật làm dập cuống hoa và thời gian kéo dài các biện pháp cơ học xử lý từng cuống để chuẩn bị cho thời kỳ khai thác, chủ yếu là uốn cong nhiều lần cho sau này dòng nhựa dễ chảy và chảy nhiều lên ngọn. Với các cây không được xử lý, lượng nhựa hàng ngày không mấy khi đạt được 150ml, nhưng với các cây xử lý đúng cách, lượng nhựa có thể lên đến 1.800ml/ngày với hàm lượng đường ổn định trong khoảng 12%.
Kỹ thuật chuẩn bị khai thác có khác nhau ở mỗi vùng mỗi dân tộc. Các nhà khoa học Philippines và Papua New Guinea đã đi tiên phong trong việc nghiên cứu, đúc kết và công bố quy trình chuẩn mực cho việc khai thác, đặc biệt là Quimbo (1991) và Paivoke (1985), nhờ đó sản lượng nhựa tăng từ 60.000 lít lên trên 100.000 lít/ha mỗi năm và năng suất đường đạt đến 28 tấn/ha.
Trước đó, các cánh rừng dừa nước phải được tỉa mỏng, chỉ giữ lại 500 bụi thay vì trên 2.500 bụi/ha, bằng việc loại bỏ các thân ngầm khả dĩ cạnh tranh dưỡng chất bởi đâm mọc thêm nhiều chồi non (Hamilton, 1988). Ở đồn điền Sumatra, cứ mỗi 10 hecta cần đến 38 người lao động: 30 cho việc lấy nhựa, 5 cho việc tỉa gốc và xử lý cơ học cuống hoa, 2 cho việc chuyên chở và 1 người cai quản. Sản lượng đường đều đặn tại đó vào khoảng 22,4 tấn/ha/năm.
Phục hồi rừng dừa nước ở nước ta như một nhu cầu cân bằng sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học là việc làm cần thiết. Việc này chỉ có thể làm được khi đặt cây dừa nước thành đối tượng khai thác kinh tế có hiệu quả, đồng thời quy hoạch các rừng dừa nước như nguồn dự trữ năng lượng thực vật –đường ăn, cồn và củi- cho hiện tại và tương lai.
Có thể bạn quan tâm

Dù mới "bén duyên" với vùng đất đồi gò tại Hà Nội được một thời gian ngắn, song với giá trị sản phẩm hàng hóa đạt 309 triệu đồng/ha, cây thanh long ruột đỏ (TLRĐ) đang phát huy lợi thế trên vùng đất đồi gò, bước đầu cho hiệu quả kinh tế cao.

Châu Thành (Hậu Giang) vốn có thế mạnh vườn cây ăn trái với diện tích hơn 9.000ha. Nhưng 3 năm trở lại đây diện tích và sản lượng có xu hướng giảm, trong đó nguyên nhân chính là do vườn bị lão hóa. Để từng bước khôi phục lại cây ăn trái truyền thống này, Châu Thành đã và đang thực hiện nhiều giải pháp khôi phục, trong đó mô hình “Trồng bưởi thâm canh theo hướng an toàn vệ sinh thực phẩm” được đánh giá là biện pháp khả thi nhất.

Lũ rút cũng là lúc sông Cửu Long cho thấy sự hào phóng về các sản vật mùa nước nổi. Người dân vùng đồng bằng tranh thủ khai thác thủy sản đang vào độ “chạy” nhất với đủ mọi hình thức và dỡ chà là một trong những phương pháp thủ công độc đáo còn được áp dụng.

“Mô hình nuôi ghép cá rô phi đơn tính và cá chép V1 đã đem laị hiệu quả kinh tế cao cho xã Mường Cang và xã Mường Than. Đó chính là cơ sở để huyện Than Uyên (Lai Châu) phát huy lợi thế mặt nước, đồng thời đưa ngành chăn nuôi thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong phát triển nông nghiệp ở huyện” – Đó là nhận định của ông Mai Tiến Lực -Trạm trưởng Trạm khuyến nông huyện về mô “Nuôi cá thả ghép”.

Theo đánh giá của Sở Khoa học và Công nghệ (KH-CN) tỉnh Khánh Hòa về việc triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu KH-CN vào thực tiễn năm 2013, đề tài “Bước đầu nghiên cứu ấp nuôi nhân tạo chim yến hàng Aerodramus Fuciphagus Amechanus làm cơ sở khoa học cho việc phát triển đàn yến trong nhà ở Khánh Hòa” đã được Công ty Yến sào Khánh Hòa triển khai ứng dụng vào thực tiễn cho kết quả rất tốt.