Cần đầu tư bài bản cho nghiên cứu giống vật nuôi

Trong 5 năm gần đây, Viện Chăn nuôi đã chuyển giao vào sản xuất nhiều sản phẩm công nghệ có giá trị. Ước tính giá trị từ các sản phẩm khoa học công nghệ do Viện cung cấp bình quân hằng năm khoảng 11.000 - 12.000 tỷ đồng.
Đã có 134 nghiên cứu khoa học nổi bật và phần lớn đã được ứng dụng và chuyển giao vào thực tiễn sản xuất tại các vùng sinh thái trên cả nước. Viện Chăn nuôi cũng đã phối hợp với các đơn vị bảo tồn được 44 giống vật nuôi có nguy cơ truyệt chủng.
Đây là thông tin được đưa ra tại Hội nghị Khoa học công nghệ 2015 của Viện Chăn nuôi tổ chức ngày 16/9.
Theo ông Nguyễn Thanh Sơn, Viện trưởng Viện Chăn nuôi, Viện có trên 50 tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được chuyển giao và sử dụng, trong đó, đáng chú ý có nhiều sản phẩm về giống gia cầm như giống gà thả vườn, vịt hay lợn năng suất cao, tinh bò đông lạnh… chiếm tỷ lệ cao trong cả nước.
Chẳng hạn như tinh bò đông lạnh, Viện hiện đang cung ứng được 65% thị phần cả nước, giống gà lông màu đang chiếm trên 30%, vịt giống chất lượng cao khoảng 45%...
Ngoài ra, các tiến bộ kỹ thuật về thức ăn, quy trình nuôi dưỡng cũng đã được chuyển giao trong sản xuất có hiệu quả. Viện đang ký hợp đồng với các doanh nghiệp như Tập đoàn DABACO, Công ty Thái Dương… để hỗ trợ phát triển các dòng sản phẩm đặc thù.
Tuy nhiên, công tác chuyển giao từ nghiên cứu đến thực tế vẫn còn gặp không ít khó khăn do cơ chế từ việc huy động tài sản như đất đai, thiết bị để đưa vào liên doanh, liên kết đến hạn chế về kinh phí đầu tư cho một sản phẩm được nghiên cứu đến cùng.
“Thay vì có các đề tài mang tính cắt khúc như hiện nay, Nhà nước cần có những đề tài, chương trình mang tính dài hơi để tập trung cho những sản phẩm mang tính quốc gia, sản phẩm vùng để sản phẩm có thể cạnh tranh được khi hội nhập”, ông Nguyễn Thanh Sơn khuyến nghị.
Các chuyên gia cũng nhận định, việc bảo tồn nguồn gen tốt sẽ là lợi thế của ngành chăn nuôi khi Việt Nam hội nhập, thậm chí các sản phẩm đặc sản hoàn toàn có thể xuất khẩu với giá cao. Theo TS. di truyền giống Trần Long, nếu muốn duy trì nguồn gen này phải xây dựng được hệ thống bảo tồn.
Cần có những trang trại lớn, giữ quỹ gen và cung cấp các sản phẩm cho người chăn nuôi. Điều này sẽ giúp nguồn gen quý không bị mai một sau mỗi một lần lai tạo.
Có thể bạn quan tâm

Tuy nhiên, có nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động khai thác thủy sản trên biển hiện nay, nhất là tổn thất sau thu hoạch khá cao, từ 20-30% giá trị sản phẩm; các mô hình liên kết trong sản xuất hiện có của tỉnh do ngư dân tự nguyện hình thành nên tính liên kết thiếu bền vững.

Tại khu rẫy trồng ca cao xen chuối và dừa của gia đình ông Lê Công Hậu (thôn Xuân Phú 1, xã Suối Tiên, huyện Diên Khánh, Khánh Hòa), những cây ca cao còn thấp nhưng đã có trái. Gia đình ông Hậu là một trong số các hộ dân được đầu tư trồng thử nghiệm cây ca cao khi tham gia đề tài cấp tỉnh “Ứng dụng trồng cây ca cao tại Khánh Hòa (giai đoạn 1)” do Thạc sĩ Hoàng Vinh (Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ) làm chủ nhiệm.

Vụ đông năm nay, nông dân huyện Tân Yên (Bắc Giang) liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh trồng 106 ha dưa chuột bao tử xuất khẩu, tăng hơn 60 ha so với cùng kỳ năm ngoái. Phần lớn dưa bao tử được trồng tập trung với diện tích từ 4 - 7 ha/vùng.

Theo đánh giá của ngành chức năng huyện Phú Tân và người dân: Nuôi tôm quảng canh cải tiến và sử dụng chế phẩm sinh học mang tính bền vững và an toàn. Nhiều nông dân đã phát triển kinh tế khá từ mô hình này. Cũng theo bà con nông dân, nuôi tôm quảng canh cải tiến giúp bà con đúc kết kinh nghiệm, nâng cao kiến thức về kỹ thuật nuôi, tích lũy vốn để tiến tới nuôi tôm công nghiệp đạt hiệu quả hơn.

Mô hình liên kết của HTX Rau sạch Mỹ Hưng (xã Bình Triều, Thăng Bình) được xem là điển hình về xây dựng chuỗi sản phẩm khép kín cho sản xuất nông nghiệp.