Cần Đánh Giá Lại Việc Sản Xuất Lúa 3 Vụ

“Thực hiện trồng lúa 3 vụ góp phần tăng sản lượng lúa hàng năm lên 16 tấn/ha, đồng thời tạo công ăn việc làm cho người nông dân. Tuy nhiên, trồng lúa 3 vụ/năm là kiểu canh tác còn “trẻ” đối với nước ta và cả thế giới. Hiện nay, còn quá ít những bài học đánh giá tác động của việc sản xuất này đến môi trường, kinh tế - xã hội...
Vì thế cần có những nghiên cứu đồng bộ, dài hạn đúng mức” - tham luận của GS.TS Nguyễn Bảo Vệ - Chủ tịch Liên Hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (KH&KT) TP.Cần Thơ trong hội thảo tư vấn, phản biện phát triển lúa vụ 3 đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Việc khai thác lúa 3 vụ hầu hết được các đại biểu nhận định còn nhiều hạn chế, nhất là áp lực sâu bệnh. Theo lý giải, do thời gian lúa không có trên đồng càng ngắn (khoảng 1 tháng) sẽ là điều kiện để cho sâu bệnh phát triển càng nhiều, do thức ăn lúc nào cũng có, làm bùng phát sâu bệnh quanh năm và thành dịch dẫn đến việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để chữa trị cũng nhiều hơn.
Đê bao khép kín phục vụ cho sản xuất lúa 3 vụ làm hạn chế đất không nhận được phù sa, không rửa được độc chất trong ruộng, mất nguồn thủy sản thiên nhiên... mà nhiều ý kiến cho rằng là “bỏ đi cái lộc trời cho”. Theo thống kê, mùa nước nổi mang phù sa về cho ĐBSCL khoảng 250 triệu tấn/năm, vì thế lượng dinh dưỡng cần thiết cho cây lúa được hấp thu dẫn tới việc bổ sung dinh dưỡng cho cây lúa sẽ ít hơn, giảm giá thành sản xuất.
Chính việc đất không ngập nước mùa lũ sẽ tồn tại nhiều độc chất. Để kịp mùa vụ, rơm tươi được vùi vào đất trong điều kiện ngập nước yếm khí, sinh ra acid hữu cơ gây ngộ độc cho ruộng lúa. Theo khảo sát, hiện tượng này xảy ra quanh năm, ngay cả vụ đông xuân, rất tai hại cho mùa sản xuất chính ở ĐBSCL. Theo nghiên cứu, đất canh tác cần phải có thời gian “nghỉ” để phục hồi dinh dưỡng và rửa đi độc chất vào mùa nước nổi.
Khi làm lúa 3 vụ, đất tiếp xúc với quá nhiều hóa chất nông nghiệp, làm nghèo dinh dưỡng, sẽ ảnh hưởng đến năng suất lúa, năng suất lúa giảm khoảng 50 - 40kg/ha mỗi năm theo phương thức canh tác liên tục. Theo thống kê của Viện Nghiên cứu lúa quốc tế, mỗi năm năng suất sẽ giảm 1,6 - 2,0% và nếu sản xuất liên tục trong 24 năm thì sản lượng giảm từ 38 - 58%.
Ông Nguyễn Ngọc Giao - Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT TP.HCM đặt vấn đề, tại sao người nông dân sản xuất sản lượng đứng nhất nhì thế giới nhưng người nông dân vẫn không khá lên.
Ông Lê Minh Tùng - Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh An Giang cho rằng, nếu thật sự có nhu cầu tăng sản lượng lương thực của từng địa phương và vùng ĐBSCL trong bối cảnh không thể mở rộng diện tích thì cần có chủ trương rõ ràng, cụ thể. Hiện nay, cả nước cần xem lại sản xuất lương thực đến mức nào là vừa để phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, đảm bảo hiệu quả kinh tế cho người trồng lúa, thay vì sản xuất nhiều mà hiệu quả thấp, cộng với việc lúng túng trong tiêu thụ lúa...
Theo các chuyên gia nhận định, để khắc phục những yếu tố bất lợi, cần đẩy mạnh sử dụng giống ngắn ngày, quản lý rơm rạ sau mỗi vụ, quản lý về nhu cầu dinh dưỡng của đất, hướng đến sản xuất 2 vụ lúa, 1 vụ màu... Nhằm giảm thất thoát sau thu hoạch cần có hệ thống sấy, khuyến cáo người nông dân tận dụng phụ phẩm và chế phẩm của cây lúa giúp nâng cao thu nhập.
Đồng thời, quy hoạch sản xuất lúa vụ 3 trên quy mô toàn vùng, nhất là trong vùng chịu ảnh hưởng lũ để không tác động ảnh hưởng đến những vùng khác. Bên cạnh đó, cần đánh giá toàn diện hơn về công trình kiểm soát lũ...
Song song đó, các ý kiến cũng cho rằng thay thế một số mùa vụ sản xuất lúa trong năm bằng cây trồng phù hợp khác, chuyển từ 2 vụ lúa sang 1 vụ màu, trồng cây ăn trái... Tuy nhiên, vấn đề đặt ra cho người chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng này sẽ gặp nhiều khó khăn khi người dân vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm, nhiều loại hoa màu không thích hợp với đất sản xuất lúa...
Bên cạnh đó, điều đáng quan tâm nhất đó là đầu ra cho các sản phẩm, phải thực sự đáp ứng nhu cầu thị trường. Để thực hiện điều đó, cần phải có bao tiêu sản phẩm, hướng đến việc liên kết 4 nhà. Trong khi hiện nay, liên kết trên chỉ được thực hiện với cây lúa nhưng chưa chặt chẽ...
Theo T.S Nguyễn Văn Đúng - Chủ tịch Liên Hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đồng Tháp: “Việc tìm ra cây trồng phù hợp vừa thay thế cho lúa vụ 3 và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng cần có những hội thảo và thời gian để tìm ra sản phẩm có thể đáp ứng tốt cho nhu cầu thị trường cũng như kỳ vọng của người nông dân”.
Có thể bạn quan tâm

Hiện nay, sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam đã có mặt trên 100 thị trường nước ngoài. Những thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam (chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ) là Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc và Nhật Bản. Năm 2013, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất ASEAN, đứng thứ hai tại châu Á và thứ 6 trên thế giới với kim ngạch đạt trên 5,5 tỷ USD.

Mô hình chợ thí điểm bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) tại chợ Hà Vị, TP. Bắc Giang” được coi là mô hình chợ an toàn đầu tiên trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.

Ông Nguyễn Tiến Từ - Chủ tịch UBND xã Phong Hải chia sẻ kinh nghiệm tổ chức, quản lý quy hoạch, sản xuất vùng nuôi tôm trên cát của địa phương tại Diễn đàn KN @ NN "Phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng công nghiệp theo hướng an toàn, bền vững ở vùng cát ven biển các tỉnh miền Trung” do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tổ chức.

Chuyến ra khơi này tàu làm dịch vụ hậu cần, chuyên cung cấp nhiên liệu, nhu yếu phẩm và thu mua hải sản cho ngư dân. Tàu vận chuyển 17.000 lít dầu, trên 1.000 cây đá, 7.000 khay đựng cá…, tổng giá trị chuyến ra khơi trên 300 triệu đồng. Sau chuyến biển đầu tiên này, tàu SANG FISH 01 sẽ ra khơi để đánh bắt hải sản kiêm công tác dịch vụ hậu cần cho bà con ngư dân.

Mô hình được thực hiện trên quy mô 1.200 m2 tại hộ gia đình nhà ông Nguyễn Kiên Quyết, xóm 5B. Các loại cá được thả là: rô phi đơn tính, trắm cỏ, mè, chép, trôi; kích cỡ giống thả từ 5-12 cm; mật độ 3 con/m2; số lượng giống 3.600 con.