Cá chình dễ nuôi, hiệu quả cao

Khả năng thích nghi cao
Cá chình là loài dễ thích nghi, có thể sống được ở nước mặn, lợ, ngọt. Nhiệt độ từ 1 - 380C cá đều có thể sống, nhưng trên 120C cá mới bắt mồi. Nhiệt độ sinh trường là 13 - 300C nhưng thích hợp nhất là 25 - 270C. Cá thích bóng tối, sợ ánh sáng nên ban ngày chui rúc trong hang, dưới đáy ao, nơi có ánh sáng yếu, tối bò ra kiếm mồi. Đặc biệt, cá chình có một quá trình sống khác lạ.
Sống ở ao đầm, các con sông, suối nước ngọt, nhưng tới mùa sinh sản, cá mẹ trở lại với biển khơi để sinh đẻ. Ở chỗ ấy thường sâu tới 300 - 400m, độ mặn lên tới 35‰ và nhiệt độ hạ xuống 16-170C. Mỗi con có thể đẻ từ vài trăm tới 1 - 2 triệu trứng. Sau khi trứng nở, cá bột tìm vào các cửa sông và sống trôi nổi ở đó. Tới khi thành cá con, chúng đi sâu vào các ao đầm, sông, suối và sinh sống ở đó.
Việc sinh sản nhân tạo cá chình đến nay chưa có nước nào nghiên cứu thành công. Tất cả cá giống đều dựa vào việc khai thác từ tự nhiên ngoài cửa sông hoặc ven biển. Ở nước ta, cá chình phân bố nhiều từ Quảng Bình đến Bình Ðịnh, đặc biệt là vùng hồ Châu Trúc, Bình Ðịnh, hằng năm cung cấp một lượng cá giống quí cho nhân dân trong vùng. Vì vậy, người nuôi phải mua cá giống của những người đi vớt cá con, chú ý mua phải cá do dùng xung điện để bắt. Cá khỏe là những con có da bóng, nhiều nhớt, không dị hình và không mang bệnh tật. Cỡ cá từ 100 -200gr/con là tốt nhất. Nên thả thưa, trung bình 1m2/con. Cá chình có thể nuôi ở trong ao, hồ, trong lồng hoặc bể xi măng.
Cá chình ít bệnh và khả năng thích nghi cao nên được nuôi ở nhiều địa phương, đặc biệt ở ĐBSCL như Cần Thơ, An Giang, Cà Mau…
Hiệu quả kinh tế lớn
Người dân nuôi cá chình hiệu quả ở Cà Mau cho biết, nuôi cá giống khoảng 100g, trong 6 tháng thì cá đạt cỡ 1 kg/con và sau 2 năm thì cá chình sẽ nặng từ 4 kg trở lên. Nếu cá không thất thoát thì vốn bỏ ra 1 có thể lời tới 4 lần. Tuy nhiên, để tránh tình trạng cá thoát khỏi ao cần cải tạo ao kiên cố, có thể dùng tôn dựng dọc bờ ao. Với diện tích nuôi 2.500m2, chi phí cá giống khoảng 70 triệu đồng (700 ngàn đồng/kg), sau thời gian nuôi 2 năm, người nuôi thu hoạch được 900 kg, lợi nhuận trên 100 triệu đồng/vụ nuôi.
Mật độ nuôi 1 con cần 2,5 - 3m2, tiêu tốn thức ăn 09 - 10 kg/kg tăng trọng (sử dụng thức ăn tươi sống, thường là cá, tôm, ốc băm nhỏ…). Cá chình là loài cá dễ nuôi, ít bệnh. Cá chình được cho ăn ngày 2 lần, sáng và chiều, sử dụng sàn để cho cá ăn, chứ không rải trực tiếp xuống ao và để lượng thức ăn vừa đủ từng độ tuổi của cá. Người nuôi thường xuyên quan sát nếu thấy lượng thức ăn còn nhiều hay ít thì giảm thức ăn cho phù hợp, tránh dư thừa thức ăn gây lãng phí.
Trong thời gian nuôi cần xử lí nước trong ao, hoặc sang ao, thay nước ao 1 năm 1 lần vào khoảng tháng 8 và tháng 9, bơm nước trong ao ra còn khoảng 1/3 lượng nước và bơm nước mới vào. Bà con có thể thu hoạch tùy vào thời điểm và trọng lượng của cá để bán. Hiện nay, giá cá chình thịt bán cho thương lái dao động từ 400.000 - 500.000 đồng/kg. Trên thế giới, giá cá chình từ 60 - 100 USD/kg. Cá chình được nhiều nước ưa chuộng như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia. Riêng ở Nhật Bản, mỗi năm phải nhập thêm hàng chục tấn cá chình.
Nuôi cá chình đang mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, để nhân rộng mô hình này ra khắp cả nước đòi hỏi phải có sự quy hoạch vùng nuôi, ổn định đầu ra cho người dân. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu sinh sản nhân tạo con giống cá chình bởi hiện nay nguồn giống không ổn định, giá thành cao, chủ yếu dựa vào nguồn con giống tự nhiên.
Tags: nuoi ca chinh, mo hinh kinh te, thuy san
Có thể bạn quan tâm
Theo Vụ Nuôi trồng thủy sản, đầu năm 2014, thời tiết ấm lên, tại nhiều địa phương, người nuôi đã thả giống (mặc dù chưa tới thời vụ nuôi của địa phương).

Tại các ao nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng, để đạt được kết quả tốt, điều quan trọng không chỉ ở chất lượng tôm giống, thức ăn mà còn là tất cả các bước trong khâu quản lí ao, đặc biệt là quản lí đáy ao. Trong đó, hoạt động sục khí là việc làm cần thiết, phải được thực hiện tại các ao nuôi tôm (nhất là trong các mô hình nuôi tôm thâm canh).

Nghệ An có tiềm năng diện tích nuôi cá hồ đập tương đối lớn với với trên 1250 hồ chứa trong đó: 948 hồ có khả năng nuôi trồng thủy sản, chủ yếu tập trung tại các huyện miền núi.Với mục đích khai thác hết tiềm năng sẵn có, đồng thời cung cấp nguồn thực phẩm tại chổ, tạo việc làm, tăng thu nhập cho các hộ gia đình nông dân, đồng bào miền núi, góp phần thiết thực xóa đói giảm nghèo, thì việc phát triển nuôi cá lồng trên các hồ chứa thủy lợi, thủy điện là phù hợp.

Trong những năm gần đây, nghề nuôi trồng thuỷ sản ở Nghệ An đã có những bước phát triển khá. Diện tích NTTS được mở rộng, đối tượng nuôi ngày càng đa dạng, năng suất và sản lượng ngày càng tăng đem lại nhiều lợi ích kinh tế cho người dân.

Với những ưu thế vượt trội, tôm càng xanh (TCX) được nhận định là một trong những mặt hàng thủy sản xuất khẩu chiến lược trong tương lai. Tuy nhiên, còn nhiều chông gai để đối tượng này “bơi ra biển lớn”.