Bón Thúc Cho Lúa Đẻ Nhánh Ở Vụ Xuân
Trong quá trình sinh trưởng phát triển, cây lúa trải qua các giai đoạn: Mạ, đẻ nhánh, làm đòng và trỗ chín, trong đó giai đoạn đẻ nhánh giữ một vai trò quan trọng nhất quyết định năng suất chất lượng vụ lúa.
1. Nhu cầu dinh dưỡng của lúa xuân thời kỳ đẻ nhánh
Các nhà khoa học đã nghiên cứu và kết luận: Với năng suất trung bình 8 tấn/ha, cây lúa đã lấy đi từ mỗi ha đất số lượng chất dinh dưỡng: 145kg N, 60kg P2O5, 150kg K2O, 250kg SiO2, 23kg MgO, 20kg CaO, 5kg S, 2kg Fe, 200g Zn, 150g Bo và 150g Cu…
Riêng thời kỳ lúa đẻ nhánh đã lấy đi gần 3/4 số lượng dinh dưỡng mà cây lúa lấy trong suốt cả vụ. Do nhận thức chưa đầy đủ nên người trồng lúa thường quan niệm lúa ở giai đoạn đẻ nhánh chỉ cần cung cấp đạm là đủ, đây là sự nhầm lẫn đáng tiếc, mà thực chất cây lúa cần đến 13 yếu tố dinh dưỡng gồm các chất đa lượng đạm (N) kali (K2O), silic (SiO2), lân (P2O5), các chất trung lượng như: Magiê (MgO), canxi (Cao), lưu huỳnh (S) và các chất vi lượng: Sắt (Fe), kẽm (Zn), bo (B), đồng (Cu)…
Một số nơi bà con nông dân cũng đã dùng phân bón NPK để bón thúc cho lúa đẻ nhánh nhưng hầu hết là các loại NPK thông thường chỉ có 3 thành phần dinh dưỡng là đạm, lân, kali và thiếu hầu hết các chất dinh dưỡng thiết yếu cho cây lúa ở thời kỳ đẻ nhánh.
2. Phân bón đa yếu tố NPK Văn Ðiển bổ sung đầy đủ dinh dưỡng cho lúa thời kỳ đẻ nhánh
Trong nhiều năm qua, phân bón đa yếu tố NPK Văn Ðiển chuyên dùng bón thúc cho lúa đẻ nhánh đã được hàng vạn bà con nông dân ở khắp nơi trong nước, đặc biệt các địa phương ở miền Bắc như Thái Bình, Hưng Yên, Nam Ðịnh, Bắc Ninh, Hà Nội, Thái Nguyên, Tuyên Quang… đã quen dùng và trở thành tập quán bón phân thúc cho lúa ở thời kỳ đẻ nhánh mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm từ 1 -2 lần bón phân đón đòng, nuôi đòng.
Lúa được bón phân đa yếu tố NPK Văn Ðiển đẻ sớm, đẻ gọn, cây mập, dảnh hữu hiệu cao, hạn chế dảnh vô hiệu, dinh dưỡng được tập trung để nuôi những dảnh chính cho nên dàn lúa đồng đều, cây cứng, lá dày, giảm thiểu sâu bệnh, ít phải dùng thuốc BVTV, lá đòng bền đến khi thu hoạch, hạt mẩy, vỏ sáng, chống đổ ngã tốt với điều kiện bất lợi của thời tiết, năng suất cao, chất lượng gạo cải thiện, độ màu mỡ của đất được tăng lên.
Ðược kết quả như vậy là do phân bón đa yếu tố NPK Văn Ðiển đã cung cấp cùng một lúc cho cây lúa đẻ nhánh 13 chất dinh dưỡng với số lượng đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thời kỳ cây lúa đẻ nhánh.
Cách sử dụng: Sử dụng phân bón thúc NPK 16.5.17 (dạng trộn 3 hạt) thành phần dinh dưỡng ngoài các chất đa lượng là N = 16%, P2O5 = 5%, K2O = 17%, còn có các chất trung lượng là CaO = 8%, MgO = 5%, S = 2% và các chất vi lượng như: Zn, B, Fe, Cu… Tổng hàm lượng dinh dưỡng cây lúa hấp thu được trên 60%.
Cách bón: Ðối với lúa cấy: Bón thúc ngay khi lúa ra lá mới (lá nõn dong) hoặc lúa ra rễ trắng thì tiến hành bón: Lượng bón cho lúa thuần từ 10-12kg/sào (360m2); đối với lúa lai tạp giao: 12-15kg/sào.
Ðối với lúa gieo thẳng: Bón khi cây lúa có 3,5-4 lá. Lượng bón từ 12-15kg tùy theo giống và điều kiện thổ nhưỡng có thể kế hợp giặm tỉa, điều chỉnh mật độ để tiến hành bón thúc.
Lưu ý:
- Ở những chân ruộng cao, đất pha cát, rão nước, mỏng màu thì mới bón thúc lần 2 vào thời kỳ đón đòng dùng 4-5kg NPK 16.5.17 Văn Ðiển để thúc.
- Ðể phân bón phát huy hiệu lực nhanh, luôn giữ mực nước nông thường xuyên (2-3cm) không để ruộng khô hạn, tốt nhất nên bón phân về buổi chiều tạnh ráo, không để phân dính lên lá. Tuyệt đối không bón lai rai hoặc bón thêm đạm sẽ làm cho lúa đẻ nhánh kéo dài, sâu bệnh gây hại bùng phát, năng suất mùa màng giảm sút.
Có thể bạn quan tâm
Bệnh Vàng Lùn Lùn Xoắn Lá Trên Lúa Bệnh vàng lùn do vi rút Rice Grassy Stunt Virus (RGSV) gây ra. Virut này xâm nhập vào cây lúa và gây bệnh thông qua môi giới là Rầy nâu (Nilaparvata lugens). Bệnh được phát hiện đầu tiên ở vùng Khu 4 cũ và sau này lây lan ra khắp các tỉnh trong cả nước, nhưng gây hại chủ yếu tại các tỉnh miền Trung và Đồng bằng sông Cửu long.
Bọ Xít Dài Hại Lúa Trứng hình bầu dục, có vết lõm ở giữa, mới đẻ có màu trắng đục, sau chuyển dần màu nâu. - Bọ xít non có hình dáng giống trưởng thành, có màu vàng lục. - Con trưởng thành có màu xanh pha màu vàng nâu, con cái có thân dài hơn con đực.
Cách Phòng Trị Bệnh Lúa Von Bệnh lúa von còn gọi là bệnh mạ đực, bệnh thối gốc (Foot-rot), hay bệnh vươn lóng (elongation disease). Tiếng Nhật gọi là bệnh bakanae. Do nấm Fusarium moniliforme-Gibberella fujikuroi. Bệnh có thể xuất hiện và gây hại từ khi cây lúa còn ở giai đoạn mạ cho đến lúc thu họach.
Chăm Sóc Lúa Xuân Đúng Cách 1. Chế độ phân bón: Tập quán canh tác cũ là bón phân đơn riêng rẽ, không cân đối được dinh dưỡng, dẫn đến mức độ lúa nhiễm bệnh cao, tỷ lệ hạt lép nhiều, trọng lượng hạt thấp. Biện pháp tốt nhất là bón phân đa yếu tố NPK đã được cân đối dinh dưỡng phù hợp cho quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa. Các giống lúa thuần và lúa lai sẽ có các công thức bón thúc khác nhau. Không bón thúc khi nhiệt độ thấp dưới 18 độ C.
Kinh Nghiệm Bảo Quản Thóc Tại Nông Hộ Theo đánh giá của tổ chức Nông-Lương Liên Hợp Quốc (FAO) hàng năm tổn thất về ngũ cốc trên toàn Thế giới khoảng 13% nghĩa là 13 triệu tấn lương thực bị mất và không sử dụng được. Ở Việt Nam tỷ lệ tổn thất nông sản sau thu hoạch trên 13%, như vậy hàng năm chúng ta bị mất khoảng 3-5 triệu tấn thóc. Năm 2006 diện tích lúa của tỉnh ta là gần 41 nghìn ha và phấn đấu sản lượng đạt trên 170 nghìn tấn thóc.