Bón NPK-SM1 Lâm Thao cho cây chè

Việt Nam là nước SX và xuất khẩu chè lớn thứ 5 thế giới. Năm 2015 kế hoạch SX đạt 1,2 triệu tấn chè thô, xuất khẩu 200.000 tấn chè chế biến, trong đó chè đen chiếm gần 80% tổng lượng chè xuất khẩu.
Giá chè xuất khẩu của Việt Nam còn ở mức thấp nhất thế giới do chất lượng chè chưa đáp ứng được khách hàng. Các nước Pakistan, Đài Loan, Nga, Trung Quốc và Indonesia là những khách hàng lớn nhất của Việt Nam trong những năm qua.
Cây chè ưa nóng ẩm. Yêu cầu nhiệt độ của các giống chè rất khác nhau:
Chè Shan thích hợp nhất 15 - 200C (thấp nhất -50C, cao nhất 320C); các giống chè trung du thích hợp 20 -2 50C (thấp nhất 00C, cao nhất 350C). Khi từ 10 - 120C cây chè ngừng sinh trưởng
. Độ ẩm không khí phải đảm bảo 85 - 90% thì cây chè mới sinh trưởng tốt, khi độ ẩm dưới 70% thì năng suất chè có bị ảnh hưởng.
Đất trồng chè
Cây chè được trồng trên nhiều loại đất như đất bazan, phù sa cổ trên phiến thạch và sa thạch.
Đất trồng chè phải có độ dày tầng canh tác ít nhất là 60 cm, giữ ẩm và thoát nước tốt, có phản ứng chua (pH 5,0 - 5,5 là thích hợp nhất). Khi pH > 6 hoặc pH < 4 cây chè phát triển kém, pH cao thì sự sinh trưởng của cây rất kém, lá cây bị héo và rễ cây bị sùi, pH > 7 cây chè có thể bị chết.
Việc bón vôi cải tạo đất chua hoặc sử dụng phân bón cho cây chè cần chú ý duy trì pH trong khoảng 4,5 - 5,5.
Khi pH cao cần sử dụng phân bón có chứa lưu huỳnh, khi đất quá chua (pH < 4) có thể sử dụng vôi vào thời gian đốn với lượng 2 - 3 tấn/ha. Không nên trồng chè trên những vùng đất có pH > 5,5.
Quan sát sự sinh trưởng của cây chè và sự có mặt của các cây chỉ thị để dự đoán là đất có pH thích hợp hay không. Khi cây chè sinh trưởng khoẻ mạnh và ở xung quanh vườn chè có các cây họ sim, mua thì đó là đất có độ pH thích hợp.
Đất trồng chè cần được duy trì hàm lượng hữu cơ tổng số > 2,0%.
Bổ sung chất hữu cơ cho đất trồng chè bằng cách giữ lại cành lá chè đốn hàng năm, tủ gốc cho chè bằng thân lá thực vật không bị nhiễm bẩn, lá rụng, cành tỉa của các loại cây che bóng, của cây trồng xen thời kỳ chè kiến thiết cơ bản, hoặc bằng cách bón phân chuồng ủ hoai, phân hữu cơ vi sinh, phân hữu cơ sinh học, phân hữu cơ - khoáng...
Dinh dưỡng của cây chè
Trung bình năng suất 1 tấn chè búp khô lấy đi 40 kg N, 11,5 kg P2O5, 24 kg K2O, 4 kg MgO, 8 kg CaO, 1 kg Al; 0,06 kg Cl; 0,08 kg Na.
Lượng hút dinh dưỡng của chè cần tính đến cả lượng dinh dưỡng cho việc hình thành bộ lá trên bụi chè, cho số lá rụng, cho việc hình thành thân cành và rễ, bị mất theo cành và thân do đốn định kỳ.
Theo đó, để hình thành nên 1 tấn chè thương phẩm cây lấy đi tổng số dinh dưỡng cho tất cả các bộ phân nêu trên là: 144 - 169 kg N; 56,8 - 71 kg P2O5; 62 - 88 kg K2O; 24 - 29,2 kg MgO; 40 - 67 kg CaO; 8,71 kg Al; 0,74 kg Na; 0,38 kg Zn; 0,26 kg B; 0,38 kg Cu; 2,41 kg Fe và 4,79 kg Mn.
Những năm mới trồng lượng đạm bón trong khoảng 120 - 240 kg N/ha và tỷ lệ N: K2O là: 1: 0,5; thời kỳ thu hoạch, tỷ lệ N: K2O là: 1: 1 với lượng bón 240 - 300 kg N và 240 - 300 kg K2O.
Những nương chè cho năng suất cao đã bón tới 350 kg N và 350 kg K2O. Các kết quả nghiên cứu về phân bón vô cơ cho thấy tỷ lệ N: P2O5 : K2O phù hợp là 1,0: 0,3-0,5: 0,5-1,0 tùy theo điều kiện đất trồng ở từng vùng và tùy theo tuổi của nương chè.
Trong thành phần của phân bón Lâm Thao NPK-S*M1 ngoài đạm, lân, kali còn được bổ sung khá đầy đủ và cân đối các nguyên tố dinh dưỡng trung, vi lượng cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng như canxi, ma giê, lưu huỳnh, kẽm, đồng, sắt, molipđen, bo...
Do đó sử dụng phân bón Lâm Thao NPK-S*M1 sẽ tăng năng suất và chất lượng chè.
Giống và mật độ trồng
Trên mỗi vùng trồng chè nên sử dụng các giống chè mới có năng suất, chất lượng cao và khả năng chống chịu tốt với cơ cấu 50%, giống địa phương 50%. Sử dụng các giống LDP1, LDP2, PH1, Shan Chất Tiền, Shan Tham Vè, Phúc Vân Tiên, Kim Tuyên, PT95 trồng cho vùng thấp; các giống Shan Chất Tiền, Shan Tham Vè, Ô long Thanh Tâm, Kim Tuyên trồng cho vùng cao.
Sử dụng giống TRI 777 trồng ở vùng chè Thái Nguyên để chế biến chè xanh chất lượng cao.
Các giống chè thân gỗ (chè Shan, PH1…) trồng với mật độ 15 - 18 ngàn cây/ha, trồng hàng đơn; các giống chè thân bụi hoặc nửa bụi (Ô long, Kim Tuyên, LDP1…) trồng mật độ từ 18 - 28 ngàn cây/ha, có thể trồng hàng kép.
Phân bón NPK-S Lâm Thao cho cây chè (tính cho 1 sào Bắc bộ 360 m2)
Căn cứ vào năng suất búp tươi mà dùng lượng phân thích hợp, bón 3 lần/năm vào tháng 2 hoặc 3, tháng 5 hoặc 6 và tháng 8 hoặc 9.
Phân chuồng cứ 2 năm bón 1 lần với liều lượng 0,7 - 1 tấn/sào Bắc bộ (360 m2) vào tháng 11 hoặc tháng 1. Cày 2 xá trùng nhau, vét rãnh sâu 20 cm, bón phân chuồng xuống rãnh rồi lấp kín.
Đối với giống Phúc Vân Tiên (SX chè xanh), Shan Chất Tiền (SX chè đen) tại Phú Hộ - Phú Thọ, tỷ lệ N:P2O5:K2O = 1:0,3:0,7 là tốt nhất, bón phân Lâm Thao NPK-S*M1 12.5.10-14 hoặc 10.5.10-5.
Đối với giống chè LDP1 và LDP2 tại Phú Hộ, tỷ lệ N:P2O5:K2O = 1:0,3:0,5 là tốt nhất, bón phân Lâm Thao NPK-S*M1 12.5.10-14 hoặc NPK-S10.5.10-5.
Đối với giống chè LDP1 và LDP2 tại Tân Cương - Thái Nguyên, tỷ lệ N:P2O5:K2O =1:0,3:0,3 là tốt nhất để đạt năng suất 10 - 11 tấn/ha, bón phân Lâm Thao NPK-S*M1 10.5.5-9 hoặc NPK-S 10.5.5-3
Đối với giống chè PH8 tại Phú Hộ, tỷ lệ N:P2O5:K2O =1:0,3:0,3 là tốt nhất để đạt năng suất 10 - 11 tấn/ha, bón phân Lâm Thao NPK-S*M1 10.5.5-3.
Sử dụng phân bón Lâm Thao NPK-S*M1 12.5.10-14, hoặc NPK-S 10.5.10-5, NPK-S 10.5.5-3, NPK-S*M1 10.5.5-9 cho một số giống chè thời kỳ kinh doanh, (kg/sào Bắc bộ 360 m2)
TT | Thời kỳ bón Loại giống | Bón lần 1 (Tháng 2-3) | Bón lần 2 (Tháng 5-6) | Bón lần 3 (Tháng 8-9) |
1 | Giống Phúc Vân Tiên (SX chè xanh), Shan Chất Tiền (SX chè đen) tại Phú Hộ - Phú Thọ, bón phân Lâm Thao NPK-S*M1 12.5.10-14 hoặc NPK-S 10.5.10-5. | 16-18 | 16-18 | 13-15 |
2 | Giống chè LDP1 và LDP2 tại Phú Hộ - Phú Thọ, bón phân Lâm Thao NPK-S*M1 12.5.10-14 hoặc NPK-S 10.5.10-5. | 12-14 | 12-14 | 9-11 |
3 | Giống chè LDP1 và LDP2 tại Tân Cương - Thái Nguyên, bón phân Lâm Thao NPK-S*M1 10.5.5-9 hoặc NPK-S 10.5.5-3 | 38-40 | 38-40 | 30-32 |
4 | Giống chè PH8 tại Phú Hộ - Phú Thọ, bón phân Lâm Thao NPK-S*M1 10.5.5-9 hoặc NPK-S 10.5.5-3 | 44-46 | 44-46 | 35-37 |
Sử dụng phân bón Lâm Thao đối với cây chè theo nguyên tắc “4 đúng” (đúng chủng loại, đúng liều lượng, đúng thời gian, đúng phương pháp) đạt năng suất cao, chất lượng tốt.
Có thể bạn quan tâm

Trong một vài năm trở lại đây, mô hình cá lăng nha đuôi đỏ nuôi trong bè nổi tại các hồ lớn, hồ thủy điện… trong tỉnh Dak Lak đã chứng tỏ được giá trị kinh tế của loài cá đặc sản được xếp bậc nhất trong họ cá da trơn trên dòng sông Mê Kông.

Thực hiện lịch thời vụ trong nuôi trồng thủy sản, trong tháng 7/2013 ở Bạc Liêu, nông dân đã tập trung thả giống hơn 96.830ha, nâng tổng diện tích tôm nuôi đến nay lên hơn 124.590ha. Trong đó, diện tích nuôi tôm công nghiệp - bán công nghiệp khoảng 11.570ha, còn lại là diện tích nuôi quảng canh, hoặc quảng canh cải tiến kết hợp với các loại thủy sản khác như: cá, cua...

Nếu như trước đây 90% giống dâu, tằm có nguồn gốc từ Trung Quốc, Ấn Độ thì nay người trồng dâu, nuôi tằm trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã chuyển sang nuôi trồng giống dâu, tằm nội địa. Giống dâu, tằm này do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông lâm nghiệp Lâm Đồng (TTNCTNNLN) nghiên cứu và đưa vào sản xuất đại trà thời gian gần đây.

An Giang có 2 doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh gạo đồ (parboiling) là Công ty TNHH Khiêm Thanh và Công ty Cổ phần Toàn Cầu, có tổng công suất thiết kế 1.200 tấn/ngày. Không chỉ bán được giá cao hơn, chế biến gạo đồ còn giải quyết được nhiều khó khăn trong sản xuất lúa gạo hiện tại.

Gần đây, trên những diện tích sản xuất lúa, hoa màu gặp khó khăn, năng suất đạt thấp do đất nghèo dinh dưỡng, nhiều nông dân xã Đại Đồng (Đại Lộc - Quảng Nam) đã chuyển sang chuyên canh cây sả theo hướng hàng hóa với diện tích lớn, thu được hiệu quả kinh tế cao.