Bổ sung axit hữu cơ trong chế độ ăn của Tôm sú

Mối đe dọa bệnh trong ngành công nghiệp nuôi trồng thủy sản cùng với nhiều hạn chế hoặc cấm sử dụng kháng sinh đã nâng cao sự quan tâm trong việc đánh giá lựa chọn thay thế kháng sinh.
Bệnh gần đây nhất đối với ngành công nghiệp tôm trên thế giới là bệnh hoại tử cấp tính hepatopancreatic (AHPND) hay thường được gọi là hội chứng tử vong sớm (EMS), khi đó tỷ lệ tôm có thể tử vong là 100%.
Một số dòng vi khuẩn Vipio parahaemolyticus được xác định là tác nhân gây bệnh. Điều này đã dẫn đến việc lạm dụng kháng sinh trong ngành công nghiệp nuôi trồng thủy sản.
Việc sử dụng bừa bãi các loại thuốc kháng sinh có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các loài vật chủ, môi trường cũng như sức khỏe của người tiêu dùng, do đó nhiều quốc gia đã hạn chế tối đa hoặc cấm sử dụng loại thuốc này.
Một lựa chọn đầy hứa hẹn là các axit hữu cơ đã được sử dụng qua nhiều thập kỷ trong ngành công nghiệp thức ăn chăn nuôi như là một chất hoạt hóa kháng khuẩn và tăng trưởng.
Tuy nhiên, thông tin rất hạn chế trên các ứng dụng của họ đối với ngành công nghiệp nuôi tôm.
Nghiên cứu này nhằm kiểm tra tác động có lợi của sự pha trộn một axit hữu cơ từ vi sinh vật kết nang mới lạ (OAB) để sản xuất tôm sú, Penaeus monodon.
Tôm được nuôi trong ao đất tại một trang trại thương mại và cho ăn thức ăn công nghiệp mà không cần (chế độ ăn A) hoặc (chế độ ăn B) bổ sung acid hữu cơ ở mức 2% OAB suốt giai đoạn nuôi thương phẩm.
Tôm nuôi đã được lấy mẫu ngẫu nhiên và chuyển đến phòng thí nghiệm để kiểm tra phản ứng đối với việc sử dụng chất dinh dưỡng, sức đề kháng của tôm với Vipio harveyi và mô bệnh học liên quan hepatopancreatic cũng như tính hoạt động phenoloxidase (PO).
Kết quả cho thấy sau 22 tuần nuôi cấy trong ao, tôm tăng trưởng tương tự nhau giữa các phương pháp xử lý.
Nồng độ nitrite và nitrate-N-N thấp hơn trong ao cho thấy việc sử dụng protein mang lại hiệu quả đối với tôm được cho ăn các axit hữu cơ.
Điều này được hỗ trợ bởi dữ liệu từ các thử nghiệm khả năng tiêu hoá có protein thô, nhưng cũng là chất khô, tro và việc sử dụng phốt pho đã được tăng cường đáng kể trong tôm cho ăn chế độ B.
Tổng số vi khuẩn tồn tại và vi khuẩn phẩy thì thấp hơn vào cuối giai đoạn nuôi thương phẩm trong ao nuôi tôm cho ăn chế độ ăn B.
Tôm cho ăn chế độ ăn B sống sót cao hơn nhiều dưới thách thức V. harveyi, có thể do tăng cường tính hoạt động PO và ít sự phá hủy hepatopancreatic hơn.
Tổng số lượng vi khuẩn phẩy Vipio trong gan tụy của tôm cho ăn chế độ ăn B thấp hơn đáng kể so với chế độ A.
Nghiên cứu này cung cấp số liệu báo cáo đầu tiên về việc sử dụng axit hữu cơ dinh dưỡng trong một trang trại nuôi tôm thương mại.
Việc tăng cường sử dụng các chất dinh dưỡng có thể làm giảm chi phí thức ăn và cải thiện chất lượng nước trong khi sức đề kháng của tôm cao hơn đối với vi khuẩn gây bệnh như vi khuẩn Vipio spp.
Có thể cung cấp cho người nuôi tôm phương pháp hiệu quả để giảm thiểu dịch bệnh trong ngành công nghiệp nuôi trồng thủy sản tôm toàn cầu
Biên dịch: www.2lua.vn
Có thể bạn quan tâm

Từ năm 2000 đến nay, ông Châu Ngọc Tòng, nông dân ấp Trà Teo, xã Hòa Đông (huyện Vĩnh Châu, Sóc Trăng), nuôi tôm sú đều đạt hiệu quả kinh tế cao.

Khoa thủy sản Trường đại học Cần Thơ vừa thử nghiệm thành công trong việc pha nước biển nhân tạo để ươm tôm sú giống. Bằng kỹ thuật này, tôm sú giốngcó tỷ lệ nuôi sống cao hơn nuôi trong nước biển tự nhiên.

Không riêng gì Bến Tre, việc nuôi tôm sú công nghiệp ở đâu cũng đòi hỏi các khâu đều phải thực hiện nghiêm ngặt. Theo kỹ sư Lê Văn Bảnh, cán bộ kỹ thuật Trung tâm khuyến ngư tỉnh: "Trong điều kiện như nhau, thì khâu con giống giữ vai trò quyết định dẫn đến thành công hay thất bại".

Nhóm nghiên cứu của Khoa Nông Lâm Ngư- Đại học Vinh đã triển khai mô hình nuôi theo hướng này tại xã Hưng Hoà, thành phố Vinh, Nghệ An.

Xin giới thiệu hình thức nuôi ghép cua xanh với tôm sú, đạt năng suất 1 tấn/ha. Mô hình này được áp dụng cho tất cả các tỉnh ven biển trong cả nước.