Bí kíp thâm canh hành củ

- Xử lý đất và lên luống: Nếu pH < 6,0 thì bón 10 - 15 kg vôi bột/sào; bón 5 - 7 kg vôi bột/sào (pH 6,0 - 6,5).
Nếu pH > 6,5 thì không bón vôi.
- Luống trồng: Mặt luống rộng 1 m.
Rãnh rộng 30 cm.
Luống cao 30 - 35 cm.
- Giống: Mỗi sào hành cần 15 - 20 kg giống.
Chọn củ chắc, đáy tròn, màu tím đậm, không bị nhiễm bệnh, rễ non chưa mọc, không bị giập nát.
Bóc thành từng mũi (ánh hành).
- Xử lý củ giống: Nên xử lý bằng dung dịch thuốc Nativo 750 WG nồng độ 1% (3 gr/3 lít nước) + thuốc trừ vi khuẩn Kasumin 2L (1%) phun ướt đều cho hành giống trước khi trồng.
Hoặc xử lý củ giống bằng cách ngâm vào dung dịch Rovral 50 WP 2% + Kasumin 2 L (1%) trong thời gian 5 - 10 phút.
Xử lý cây con sau khi trồng để phòng trừ sâu bệnh hại: Pha 1 gói Nativo 750 WG (3g) + 1 gói Confidor 700 WG (1g) + Kasumin 2L (1%) cho 1 bình 12 lít phun 1,5 bình cho 1 sào Bắc bộ (360 m2).
Pha hỗn hợp thuốc để phun hoặc nhúng củ hành cho ướt đều, để ráo rồi cắt nhẹ từ đầu củ xuống và phần rễ khô ở gốc củ khoảng 0.5 cm.
- Lượng phân và cách bón: Phân hữu cơ hoai mục 7 - 8 tạ (hoặc 30 kg phân vi sinh); ure 8 - 9 kg; phân lân 25 - 30 kg; kali 7- 8 kg/sào.
Chia làm 4 lần bón.
Bón lót: 2 kg ure + 18 kg supe lân + 1 kg kali.
Bón đều trên luống, trộn kỹ với đất san phẳng hoặc bón đều mặt ruộng trước khi làm nhỏ đất lần cuối (không để củ tiếp xúc trực tiếp với phân).
Thúc lần 1 từ 10 - 15 ngày sau trồng: 2 kg ure + 3.5 kg supe lân + 1 kg kali.
Thúc lần 2 sau lần 1 từ 15 - 20 ngày: 4 kg ure + 5 kg supe lân + 2 kg kali.
Thúc lần 3 sau trồng 55 - 60 ngày: 1 kg ure + 3.5 kg supe lân + 3 kg kali.
Hành tỏi rất cần các vi lượng Cu, Bo, Mn.
Nếu thấy ruộng hành phát triển kém, đầu lá khô hoặc cong queo thì dùng 1 gói phân vi lượng + 0,5 lạng kali trắng/bình 18 lít phun vào ngày hôm sau khi tưới thúc sẽ giúp tăng hiệu quả sử dụng phân và hạn chế cây bị các loại bệnh.
- Kỹ thuật trồng: Cắm múi hành thành 5 hàng dọc theo luống, hàng ngoài cách mép luống 5 - 7 cm.
Khoảng cách hàng cách hàng 25 cm, cây cách cây 20 cm đảm bảo mật độ 4.500 - 5.000 củ/sào.
Ấn sâu múi hành xuống đất ngập 2/3 nhánh, sau đó dùng rơm, rạ phủ lên trên để giữ ẩm cho đất và hạn chế cỏ mọc (tốt nhất nên dùng rơm rạ cũ).
Dùng thuốc trừ cỏ Heco, Butanic… phun trước khi trồng, trước khi phun phải tưới ẩm mặt luống.
Sau khi trồng và phủ rơm rạ xong, tưới đẫm nước trên mặt luống, tiếp tục tưới nước giữ ẩm đến khi cây mọc.
Khi cây mọc 3 - 4 lá thật có thể tưới rãnh kết hợp với bón thúc.
* Lưu ý:
- Nên kết thúc bón phân sau trồng 50 - 60 ngày kết hợp với tỉa hành.
- Thường xuyên giữ ẩm 70 - 80% độ ẩm đất, gió bấc hanh khô cần tưới nhiều, không tưới đẫm khi gió đông để hạn chế bệnh hại.
- Thời kỳ sau trồng 70 ngày hành bắt đầu xuống củ, nếu gặp nhiệt độ cao thì hạn chế tưới nước để tránh cây sinh trưởng trở lại “hành bị rút ruột”.
Bổ sung thêm kali trắng (0,5 lạng/bình, 1 tuần 1 lần) để giúp cây xuống củ thuận lợi và chống bệnh sương mai tốt hơn.
Có thể bạn quan tâm

Theo số liệu thống kê của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Châu Thành (Bến Tre), toàn huyện hiện có 373 bè nuôi cá; tập trung nhiều nhất ở xã Tân Thạch với hơn 30 hộ nuôi, tổng số trên 120 bè và tổng thể tích nuôi gần 15.000m3.

Thời gian qua, nhiều người dân trên địa bàn xã Lương Hòa (Giồng Trôm) thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng có hiệu quả. Trong đó, hộ ông Nguyễn Văn Trung, sinh năm 1962, ở ấp Phong Điền, thí điểm thành công mô hình trồng dưa gang, đạt hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập.

Mặc dù còn nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm, nhưng gần 100 hộ dân tham gia HTX Sản xuất và kinh doanh rau an toàn ở thôn 6, xã Nghĩa Dũng (TP Quảng Ngãi) vẫn kiên trì theo đuổi và từng bước khẳng định được thương hiệu rau an toàn của địa phương mình.

Thôn Đồng Giàn, xã Đội Bình (Yên Sơn) là thôn thuần nông, có hơn 95% dân số là người dân tộc Cao Lan. Trước năm 1999, thôn có số hộ nghèo nhiều nhất xã với hơn 55% tổng số hộ. Hơn 10 năm qua, bà con đã đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đa ngành, đa nghề. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên.

Năm 2013, toàn huyện Chi Lăng (Lạng Sơn) trồng được 111,27 ha ớt chỉ thiên xuất khẩu. Năng suất đạt 76 tạ một ha được tính là cao nhất từ trước đến nay. Sản lượng đạt 855,5 tấn, tăng gần gấp đôi so với năm 2012. Hiện nay trung bình mỗi kg ớt tươi được tư thương mua với giá 15 đến 20 ngàn đồng. Nhận thấy tiềm năng cây ớt xuất khẩu, huyện Chi Lăng đã xây dựng đề tài khoa học trồng và phát triển cây ớt tạo thành vùng hàng hóa.