Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Bi kịch nhiều ruộng vẫn nghèo trồng lúa theo yêu cầu của thương lái

Bi kịch nhiều ruộng vẫn nghèo trồng lúa theo yêu cầu của thương lái
Ngày đăng: 12/11/2015

Do thương lái yêu cầu

Tại huyện Châu Thành A (Hậu Giang), theo thống kê của Phòng NNPTNT, chỉ riêng vụ đông xuân năm 2014 toàn huyện có 30% diện tích lúa chất lượng thấp, nhưng đến vụ sau (vụ hè thu năm 2015), diện tích loại lúa này tăng lên 70%.

Nguyên nhân khiến cho diện tích lúa chất lượng thấp tăng đột biến là do các thương lái yêu cầu thu mua với số lượng lớn, tác động đến các địa phương khi phân bổ diện tích gieo sạ.

Ông Ngô Xuân Hiền – Trưởng phòng NNPTNT huyện Châu Thành A, cho biết: “Lâu nay, lúa IR 50404 vẫn được thương lái mua vì có thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước.

Hơn nữa trong cơ cấu 3 vụ một năm thì phải có một vụ gieo sạ lúa ngắn ngày nên người nông dân đã lựa chọn IR 50404”.

Cũng như ông Hiền, bà Trần Hồng Tim – Trưởng phòng NNPTNT huyện Vị Thủy (Hậu Giang) nhận định, diện tích lúa chất lượng thấp trên địa bàn huyện còn lớn một phần là do... thương lái.

Bà Tim giải thích: “Nhiều năm qua, khi bước vào vụ thu hoạch, lúa IR 50404 sẽ được làm trước (thời gian sinh trưởng ngắn hơn lúa chất lượng cao) nên thương lái mua với giá cao.

Sau khi thu hoạch lúa chất lượng cao, lúa IR 50404 đã được gặt gần hết, số lượng ít nên thương lái cũng mua với giá cao để đấu trộn với lúa khác.

Nghĩ giá lúa này lúc nào cũng cao nên nông dân cứ mãi sản xuất, ít quan tâm đến lúa chất lượng cao”.

Theo Sở NNPTNT tỉnh Hậu Giang, tỷ lệ sản xuất các giống lúa chất lượng thấp trên địa bàn tỉnh có chiều hướng gia tăng.

Cụ thể, năm 2014 chiếm khoảng 20% diện tích gieo sạ; nhưng năm 2015 này có khả năng lên đến khoảng 30%.

“Hiện vẫn còn nhiều thị trường cần gạo giá rẻ nên người dân đã dựa vào nhu cầu đó mà sản xuất.

Trong đó, có số diện tích gieo sạ theo yêu cầu của thương lái, có số diện tích đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp xuất khẩu (có hợp đồng bao tiêu)” – ông Lê Văn Đời – Phó Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Hậu Giang nói.

Liên quan đến việc nhiều nông dân trên địa bàn tỉnh sản xuất lúa chất lượng thấp, ông Huỳnh Ngọc Vân – Phó Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Sóc Trăng nhận định:

“Hiện nay các loại lúa chất lượng thấp vẫn có thị trường xuất khẩu ổn định như Philippines, Trung Quốc… Để đáp ứng thị trường trên, một số doanh nghiệp yêu cầu sản xuất thì người dân vẫn sản xuất với số lượng diện tích ổn định, cân đối”.

Cũng theo ông Vân, nếu sản xuất lúa IR 50404 thì phải sản xuất ở một vùng nhất định và có đầu tư của ngành chuyên môn.

Hiện các nhà chế biến cho biết các loại gạo dẻo không làm được gạo sấy nên đã lựa chọn IR 50404 (có tinh bột cao) chế biến.

Chính điều này dẫn tới việc, thời gian và giá thu mua lúa chất lượng thấp ở ĐBSCL phần lớn phụ thuộc vào sức mua thương lái, nếu thị trường cần thì thương lái mua giá cao, nếu thị trường dư thừa thì giá xuống thấp, khó kiểm soát.

Thay đổi vòng luẩn quẩn

"Hiện nay, nhu cầu thế giới đối với lúa chất lượng thấp ở Việt Nam là 30%, nếu người dân tiếp tục tăng diện tích thì giá lúa sẽ giảm.

Cá biệt một số giống lúa chất lượng thấp có giá cao là do các thương lái tung giá “ảo” để người dân tăng diện tích xuống giống”. PGS-TS Nguyễn Ngọc Đệ

Theo PGS-TS Nguyễn Ngọc Đệ - Phó Trưởng khoa Phát triển nông thôn (Trường Đại học Cần Thơ), một trong những nhược điểm của ngành lúa gạo ở ĐBSCL là phần lớn lượng lúa sau khi thu hoạch phải qua tay thương lái.

Những thương lái mua lúa IR 50404 với giá cao ở vụ đông xuân để xay xát hoặc trữ lại vì tỷ lệ gạo thành phẩm của loại lúa này đạt cao sau khi xay xát (còn gọi là đặng gạo).

Loại lúa này sẽ được đấu trộn các loại lúa có chất lượng cao (hạt gạo thường bị gãy, vỏ dày, không được đặng gạo) để bán gạo được lãi nhiều.

Cũng theo ông Đệ, việc làm trên của các thương lái đã thúc đẩy người dân trồng lúa IR 50404, nhưng ngược lại kéo giảm diện tích lúa chất lượng cao chứ không phải chính quyền địa phương khuyến khích người dân gieo sạ lúa chất lượng thấp.

Việc làm này cần có biện pháp ngăn cản kịp thời và tách bạch riêng giữa các nhóm gạo để có thể tồn tại được trên thị trường xuất khẩu.

Ngoài ra, để ổn định được sản lượng, nước ta cần tăng cường đầu tư vào lĩnh vực chế biến.

Cách này có thể giúp vùng bảo quản được lúa gạo khi giá xuống thấp, lúc cần thì tung ra thị trường.

Còn TS Lê Văn Bảnh – Phó Cục trưởng Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và Nghề muối (Bộ NNPTNT), một chuyên gia về lúa gạo thì cho rằng:

“Có thể nói, đến nay, nước ta đã đạt nhiều thành tựu đáng kể trong sản xuất lúa, đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 3 trên thế giới sau Thái Lan, Ấn Độ, với sản lượng đạt từ 6-7 triệu tấn gạo/năm.

Tuy nhiên, giai đoạn hội nhập này, số lượng không còn quan trọng nữa mà cần ở chất lượng cao để cạnh tranh, cần ở giá trị hạt gạo”.

Theo TS Bảnh, tập quán canh tác cũng như tư duy cũ cần phải thay đổi, tuy nhiên vấn đề này cần phải có thời gian.

Riêng về sản xuất lúa chất lượng thấp như IR 50404, TS Bảnh cũng cho rằng: Các doanh nghiệp và các cơ quan có liên quan phải phân vùng sản xuất cụ thể và có sự quản lý chặt chẽ về diện tích, sản lượng, chất lượng.

Bởi thực tế, giống lúa nào của Việt Nam cũng có thị trường, chỉ cần đưa sản phẩm đến đúng nơi cần đến với số lượng cụ thể.

Chọn tạo nhiều giống lúa chất lượng cao

Bộ trưởng Bộ NNPTNT Cao Đức Phát đã từng cho biết: “Tôi có trao đổi với các đồng chí Giám đốc Sở NNPTNT các tỉnh ĐBSCL, tại sao ở gia đình, vợ con nhà các đồng chí đều ăn gạo có giá 10.000 đồng/kg trở lên, mà các đồng chí cứ đi chỉ đạo bà con nông dân sản xuất giống lúa chất lượng thấp.

Điều này cần được thay đổi ngay”.

Cũng theo ông Phát, trong việc thực hiện tái cơ cấu ngành lúa gạo hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã có đóng góp rất tốt trong việc chọn, tạo và phổ biến các giống tốt cho nhân dân, như Tổng Công ty Giống Thái Bình có giống lúa BC15 được trồng trên diện tích lớn nhất so với các tổ chức nghiên cứu về giống lúa ở nước ta.

Về cơ cấu sản xuất, ông Phát cũng cho biết đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy các lợi thế của cả nước và mỗi vùng.

Những gì là lợi thế của nước ta thì vẫn đang được tiếp tục phát huy mạnh hơn.

Trong sản xuất lúa đang có chuyển động mạnh theo hướng nâng cao chất lượng.

Tỷ lệ sử dụng giống lúa chất lượng cao tăng nhanh.

Ở Thái Bình, giống BC15 bán được khoảng 7.000 đồng/kg, nên tới vụ mùa vừa qua đã tới 70% diện tích gieo trồng lúa đạt chất lượng cao.


Có thể bạn quan tâm

Bám Víu Nghề Dâu Tằm Bám Víu Nghề Dâu Tằm

Làng Đại Bình trước kia có đến 80% người dân sinh sống bằng nghề trồng dâu nuôi tằm. Những bãi bồi dọc sông Thu Bồn chính là vựa dâu xanh tốt giúp làng dâu tằm Đại Bình, Hương Quế nổi tiếng một thời.

16/08/2014
Nhiều Nghề Khai Thác Thủy, Hải Sản Được Mùa Trong Tháng 7 Nhiều Nghề Khai Thác Thủy, Hải Sản Được Mùa Trong Tháng 7

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong tháng 7-2014 sản lượng khai thác thủy, hải sản trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 7.494 tấn, bằng 106,8% so với cùng kỳ và bằng 8,9% so với kế hoạch. Riêng hoạt động khai thác trên biển đạt 7.198 tấn, bằng 106,5% so với cùng kỳ và bằng 8,9% so với kế hoạch.

16/08/2014
Tập Trung Phòng Trừ Sâu Cuốn Lá Hại Lúa Vụ Mùa Năm 2014 Tập Trung Phòng Trừ Sâu Cuốn Lá Hại Lúa Vụ Mùa Năm 2014

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), hiện nay trên địa bàn tỉnh sâu cuốn lá lứa 6 đang phát sinh và gây hại, sâu non tuổi 1 gây hại từ ngày 8 đến 13-8-2014, đợt 2 tập trung từ ngày 15 đến 18-8-2014 trên các trà lúa mùa sớm, chính vụ và rải rác cho tới 25-8-2014 trên trà lúa cấy muộn, khả năng trong những ngày tới, nếu không có biện pháp phòng trừ tích cực, quyết liệt thì sẽ xuất hiện đợt dịch sâu cuốn lá nhỏ trên diện rộng, ở nhiều địa phương trong tỉnh, nhất là các huyện ven biển, thiệt hại do sâu gây ra sẽ là rất lớn, đặc biệt là trên diện tích trà lúa mùa muộn.

16/08/2014
Thực Hiện Nhiều Giải Pháp Bảo Vệ Và Phát Triển Rừng Tận Gốc Thực Hiện Nhiều Giải Pháp Bảo Vệ Và Phát Triển Rừng Tận Gốc

Nhằm bảo vệ và phát triển rừng (BV&PTR) tận gốc, Ban Quản lý (BQL) rừng phòng hộ Thanh Kỳ (trên địa bàn xã Thanh Tân, huyện Như Thanh) đã giao khoán 5.482 ha rừng cho 651 hộ dân bảo vệ, chăm sóc và sản xuất theo mô hình trang trại tổng hợp, nông - lâm kết hợp chăn nuôi.

16/08/2014
Ngư Dân Được Vay Vốn Đóng Tàu Lãi Suất 1 - 3%/ Năm Từ 25.8 Ngư Dân Được Vay Vốn Đóng Tàu Lãi Suất 1 - 3%/ Năm Từ 25.8

Riêng năm đầu tiên ngư dân được miễn lãi và chưa phải trả nợ gốc, phương thức và thủ tục cho vay thuận tiện, phù hợp. Đặc biệt, ngư dân chỉ phải trả lãi suất từ 1 - 3%/năm tùy thuộc vào chất liệu của vỏ tàu và tổng công suất máy chính đối với tàu đóng mới, nâng cấp.

16/08/2014