Bệnh Viêm Vú Ở Lợn Nái

Viêm vú (Mastilis) là căn bệnh thường gặp ở lợn nái do bị viêm một hay nhiều tuyến vú gây nên bởi vi khuẩn hoặc bệnh thứ cấp từ căn bệnh khác mang lại. Xuất hiện ngay sau khi lợn đẻ hoặc có hiện tượng lâm sàng khoảng nửa ngày sau khi lợn đẻ.
1. Nguyên nhân
Có 3 tác nhân gây bệnh chính là khuẩn Coliform, tụ cầu Streptococcus, Streptococci và những loại khuẩn phụ khác.
- Viêm do khuẩn Coliform: Khuẩn Coliform có liên quan mật thiết với khuẩn E.coli, thủ phạm gây bệnh viêm vú rất tiềm ẩn, giảm lượng sữa thậm chí còn gây "tịt sữa". Triệu chứng dễ nhận biết là da vùng xung quanh tai và đuôi biến màu. Khuẩn có cả trong phân và nước tiểu nên ảnh hưởng rất lớn đến đàn lợn con.
- Do nhiễm trùng Streptococcus và Streptococci: Đây là hai tụ cầu gây viêm vú phổ biến ở lợn nái, có thể do xây xát núm vú do răng nanh lợn con mới sinh, do lợn mẹ nhiều sữa, ứ đọng tạo nên môi trường cho khuẩn làm tổ, hoặc do quá nhiều sữa làm căng nhức, gây viêm. Có thể viêm một hay nhiều tuyến vú trong cùng một lúc, lợn kém ăn, đau nhức. Không giống Coliform, hai loại tụ cầu khuẩn này có thể thâm nhập bằng nhiều cách, nhất là các lỗ mở trên da, đầu vú. Không chỉ có lợn mà những động vật có vú khác như bò, dê, cừu cũng dễ mắc phải bệnh này.
- Do các loại khuẩn linh tinh khác: Trong nhóm này có nhiều, nhưng chủ yếu vẫn là khuẩn Pseudomonas, nó không chỉ gây chứng sưng viêm vú mà còn gây tình trạng kháng thuốc kháng sinh. Ngoài các nguyên nhân trên, còn do yếu tố khác như vệ sinh chuồng trại kém, phân nước tiểu không thoát hết, sử dụng trấu hay mùn cưa cho lợn nằm nhưng ngấm bẩn, nhiệt độ chuồng trại quá lạnh, quá nóng.
2. Triệu chứng
- Lợn con: Đói, gầy kêu nhiều vì thiếu sữa.
- Lợn mẹ: Nếu cấp tính thường là biếng ăn, vú sưng đỏ, cứng, viêm có mủ màu vàng xanh, ngoài ra còn có hiện tượng như sốt, niêm mạc mắt đỏ, vùng xung quanh tai và vùng tuyến vú đổi màu, da xanh.
- Thể mạn tính: Mô vú sưng, cứng.
3. Chẩn đoán
Các dấu hiệu lâm sàng thường không đủ để chẩn đoán bệnh mà phải quan tâm đến các yếu tố khác từ khi lợn sắp đẻ cho đến khi đã đẻ xong và giai đoạn cho con bú. Nên lấy mẫu chất tiết từ bầu vú đi kiểm tra. Trước tiên, lau sạch bầu vú bằng bông ngâm trong dịch tiệt trùng, sau đó lấy dịch tiết cần cho việc kiểm tra.
4. Phòng ngừa và điều trị
- Vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hằng ngày bằng dung dịch sát trùng.
- Bấm răng sữa cho lợn con mới sinh, nên cho lợn con bú sữa đầu và phân đều vú cho từng con trong đàn.
- Tăng cường ăn uống đủ chất cho lợn mẹ trước và sau khi đẻ, nên giảm bớt chất đạm để hạn chế nguy cơ thừa sữa.
- Khi lợn mẹ bị viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những vùng bị viêm.
- Dùng các phương pháp nhân tạo như chườm nóng, xoa bóp nhẹ lên vùng vú bị sưng.
- Tư vấn bác sĩ thú y để tìm hiểu nguyên nhân, kể cả những bệnh khác dẫn đến viêm vú. Có thể tiêm bắp kháng sinh liên tục từ 3 đến 5 ngày, như Ampiseptryl, Marbovitryl hay Penstrep (liều lượng theo quy định của chuyên môn dựa trên trọng lượng cơ thể của lợn mẹ).
- Chú ý vệ sinh sạch sẽ chuồng trại, không nên cho lợn mẹ nằm trên trấu hay mùn cưa đã ngấm phân, nước tiểu. Duy trì chuồng trại thoáng mát về mùa hè và ấm về mùa đông.
Có thể bạn quan tâm

Phân tích số liệu của các dòng bố và mẹ riêng biệt của một giống cho thấy mối liên hệ di truyền giữa tỷ lệ sống của lợn con, số con/lứa đẻ và các tính trạng sản xuất, mang hy vọng cải thiện tỉ lệ sống qua nhân giống.

Những đợt tiếp theo còn gọi là lứa rạ nên dùng phương pháp thụ tinh nhân tạo cho hiệu quả kinh tế cao.

Lợn con sau cai sữa do bộ máy tiêu hoá chưa hoàn chỉnh lại bị hiện tượng Strees do thay đổi điều kiện sống nên sức đề kháng của cơ thể suy giảm, nếu không có chế độ chăm sóc hợp lý tỷ lệ tử vong sẽ cao.

Hiện nay các cơ sở chăn nuôi lợn ngoại thường cai sữa cho lợn vào tuổi 21 ngày. Lựa chọn tuổi cai sữa 21 ngày là dựa trên cơ sở sinh học của con mẹ và con con.

Đồng huyết (consanguinity) thường do giao phối cận huyết (inbreeding ) mà ra. Giao phối cận huyết là hiện tượng các con vật có cùng huyết thống được giao phối với nhau.