Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Bảo tồn giống cây trồng, vật nuôi bản địa cần nhiều giải pháp

Bảo tồn giống cây trồng, vật nuôi bản địa cần nhiều giải pháp
Ngày đăng: 29/07/2015

Từ câu chuyện bảo tồn heo Kiềng Sắt

Trước tình trạng các nguồn gen bản địa về vật nuôi ngày một thoái hóa do tình trạng lai tạo với giống khác hoặc để cận huyết kéo dài, năm 2013, Trại nghiên cứu thực nghiệm ứng dụng Công nghệ sinh học phục vụ sản xuất nông nghiệp (thuộc Trung tâm thông tin và ứng dụng Khoa học- công nghệ) nhận nhiệm vụ “Tuyển chọn và lưu giữ giống heo bản địa (heo Kiềng Sắt)”. Heo Kiềng Sắt là giống heo đặc trưng ở khu vực miền núi có khả năng kháng bệnh, chịu nhiệt tốt lại rất dễ nuôi. Với chất lượng thịt thơm ngon, nhiều nạc, ít mỡ nên mỗi ký thịt heo Kiềng Sắt giá dao động từ 120-150 nghìn đồng. Tuy nhiên, do giống heo Kiềng Sắt hiện đã lai tạo với nhiều giống heo khác, đặc biệt là heo Móng Cái nên số cá thể heo Kiềng Sắt thuần chủng ngày một ít dần. Công tác bảo tồn thuần chủng vì thế mà trở nên cấp bách.

Để có thể tìm và tuyển chọn heo Kiềng Sắt đạt yêu cầu, các thành viên của trại nghiên cứu đã phải đến từng gia đình ở các xã vùng sâu, vùng xa nhất của 4 huyện Ba Tơ, Sơn Tây, Sơn Hà, Trà Bồng. Ban đầu, việc lựa chọn heo Kiềng Sắt chỉ dựa vào đặc điểm ngoại hình cơ bản là lông đen tuyền toàn thân, da đen, mặt thẳng, mõm khá dài, chân thẳng, thân ngắn và thon, tai nhỏ… nên Trại nghiên cứu thực nghiệm tuyển chọn được 40 cá thể. Tuy nhiên, sau khi thả nuôi, so sánh với tập tính đặc trưng của heo Kiềng Sắt, Trại thực nghiệm lại tiếp tục loại thải 15 con, chỉ giữ lại 25 con heo Kiềng Sắt thuần chủng.

“Tôn trọng” tập tính của heo Kiềng Sắt, Trại nghiên cứu đã cho xây dựng hệ thống chuồng trại theo kiểu gần gũi với thiên nhiên: Có đầy đủ cây cỏ, ao nước cho heo Kiềng Sắt phát triển. Sau hơn 2 năm thả nuôi, đến nay, đã có 8 con heo sinh sản lứa đầu tiên với số lượng 40 con heo con; 2 con sinh sản lứa thứ 2 với số lượng 10 con; 4 con đang mang thai chuẩn bị đẻ lứa thứ 2. Heo con sinh ra khỏe mạnh, tỷ lệ sống đạt 90%. Từ những kết quả sau khi thả nuôi, ông Bùi Ngọc Trúc- Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin và Ứng dụng khoa học - công nghệ cho biết: “Heo Kiềng Sắt là loài dễ nuôi khi chỉ ăn chủ yếu rau cỏ và có sức đề kháng rất mạnh. Từ 25 con giống ban đầu, Trại nghiên cứu đã nhân rộng đàn lên khoảng 250 con và đến năm 2016, sẽ tiếp tục mở rộng quy mô lên 500 con”.

Không chỉ Trại nghiên cứu thực nghiệm đã bảo tồn và phát triển thành công giống heo Kiềng Sắt thuần chủng, mà trước đó, nhóm nghiên cứu của Trường ĐH Nông lâm Huế cũng đã nhân rộng được đàn heo Kiềng Sắt tại trang trại chăn nuôi của các hộ dân: Lê Minh Bửu ở xã Hành Phước; Tiêu Tùng ở xã Hành Minh (Nghĩa Hành) và Nguyễn Thành Lộc (Minh Long). Từ những tín hiệu khả quan trên có thể thấy giống heo Kiềng Sắt thích nghi được với điều kiện tự nhiên của nhiều địa phương khác nhau nên nếu nhân rộng, lợn Kiềng Sắt không chỉ là giống bản địa của người miền núi mà còn có thể phát triển được ở cả các huyện đồng bằng.

Đến những trăn trở sau bảo tồn

Vượt qua nhiều trở ngại để thực hiện tốt công tác bảo tồn, phát triển nguồn gen quý, tuy nhiên, theo ông Võ Thanh Thoại- Giám đốc Trung tâm Thông tin và ứng dụng Khoa học- công nghệ, việc tìm giải pháp để khai thác quỹ gen vào sản xuất sau bảo tồn còn khó khăn hơn rất nhiều.

Cũng theo ông Thoại, dù đề án “Tuyển chọn và lưu giữ giống heo bản địa” mới chỉ phát triển đàn heo Kiềng Sắt ở quy mô 250 con, nhưng cũng đã gặp khó khăn trong tìm thị trường tiêu thụ. Bởi heo Kiềng Sắt tuy có chất lượng thịt rất ngon nhưng lại chưa xây dựng và lan tỏa được thương hiệu nên chưa nhận được sự quan tâm của khách hàng. Vì vậy, chỉ khi nào xây dựng được thương hiệu và gỡ được “nút thắt” về đầu ra, thì Trung tâm mới tiếp tục liên kết với các huyện miền núi trong việc đưa giống heo Kiềng Sắt thuần chủng phát triển trong cộng đồng.

Câu chuyện về bảo tồn và đầu ra cho sản phẩm ở giống bản địa heo Kiềng Sắt đã đặt ra một câu hỏi lớn cho công tác bảo tồn các nguồn gen động, thực vật quý hiếm tại tỉnh ta. Bởi ngoài heo Kiềng Sắt, tỉnh ta còn rất nhiều các giống cây trồng, vật nuôi bản địa khác như gà Hrê, quế Trà Bồng, hành, tỏi Lý Sơn… Nếu như chỉ dừng lại ở việc thu thập, phục tráng nguồn gen mà không kết hợp nhiều giải pháp song hành khác trong tìm kiếm thị trường, xây dựng thương hiệu thì hiệu quả của công tác bảo tồn  khó được phát huy.


Có thể bạn quan tâm

Cẩn Trọng Khi Chọn Giống Thanh Long Ruột Đỏ Cẩn Trọng Khi Chọn Giống Thanh Long Ruột Đỏ

Trà Vinh hiện có khoảng 63 ha trồng thanh long ruột đỏ, riêng xã Đức Mỹ, huyện Càng Long có 25 ha. Đây là loại trái cây đang được người tiêu dùng ưa chuộng và đã được Hợp tác xã thanh long ruột đỏ xã Đức Mỹ xuất khẩu sang thị trường Mỹ.

18/06/2013
Nghề Trồng Ấu Gặp Khó Khăn Nghề Trồng Ấu Gặp Khó Khăn

Nhiều năm qua, người dân thuộc ấp An Nhơn, xã Long Hưng B, huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) chọn cây ấu làm cây trồng cải thiện thu nhập vào mùa nước nổi.

18/06/2013
Đài Loan Phát Triển Thành Công Gạo Có Nhiều Màu Đài Loan Phát Triển Thành Công Gạo Có Nhiều Màu

Dưới sự hỗ trợ của chính quyền Đài Loan (Trung Quốc), Trạm Nghiên cứu và Phát triển nông nghiệp huyện Hoa Liên đã phát triển thành công gạo có màu sắc khác so với gạo thông thường hiện nay, vốn chủ yếu có màu trắng.

18/06/2013
“Mở Cửa” Bằng Dồn Điền Đổi Thửa “Mở Cửa” Bằng Dồn Điền Đổi Thửa

Phúc Thành (Yên Thành) là xã đầu tiên của Nghệ An thành công trong dồn điền đổi thửa (DĐĐT). Đây là “cánh cửa” mở ra những vùng sản xuất quy mô lớn, góp phần thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới (NTM).

18/06/2013
Hiệu Quả Mô Hình Nuôi Lợn Rừng Sinh Sản Ở Hoằng Hóa Hiệu Quả Mô Hình Nuôi Lợn Rừng Sinh Sản Ở Hoằng Hóa

Gia đình ông Lê Quốc Hùng ở thị trấn Bút Sơn huyện Hoằng Hoá, Thanh Hóa đã triển khai mô hình nuôi lợn rừng được ba năm nay. Hiện nay, trại lợn rừng của ông Hùng đã có tới hàng chục cặp lợn rừng bố mẹ tham gia sinh sản, vừa làm vừa đúc rút kinh nghiệm. Đến nay trại lợn rừng của gia đình ông đã ngày một phát triển, mỗi năm xuất bán ra thị trường hàng trăm con giống, mang lại nguồn thu đáng kể so với một số ngành nghề khác.

18/06/2013