Ấn Độ phát triển giống lúa hữu cơ ưu thế lai chịu mặn

Giống lúa hữu cơ ưu thế lai mới này có tên là Ezhome-4, là giống duy nhất được chuyển giao cho canh tác trong vùng sinh thái nhiễm mặn hiện nay của khu vực phía Bắc, đặc biệt là vùng Kattampally. Đây là một trong 2 giống lúa hữu cơ ưu thế lai được chuyển giao thương mại gần đây bởi RARS, thuộc Trường Đại học Nông nghiệp Kerala (The Kerala Agricultural University (KAU)). Theo các nhà khoa học ở RARS, giống Ezhome-4 là kết quả của hàng loạt chương trình lai tạo từ năm 2002. Họ cho rằng, giống mới này là hoàn toàn phù hợp cho vùng tự nhiên có xu hướng nhiễm mặn ở Kaipad, cũng như vùng ngập nước thông thường không nhiễm mặn khác.
Các nhà tạo giống của Ấn Độ cho biết những giống lúa hữu cơ ưu thế lai này cho năng suất cao trong vùng Kaipad cũng như trong vùng Kattampally. Năng suất trung bình khoảng 5,1 tấn/ha trong vùng sinh thái hữu cơ Kaipad nhiễm mặn trung bình (năng suất này rất cao vì năng suất lúa trung bình toàn Ấn Độ rất thấp chỉ đạt 3,59 tấn/ha; trong khi đó Việt Nam là 5,53 tấn/ha theo nguồn FAOSTAT, năm 2011, cập nhật 7/2015). Năng suất rơm rạ đạt trung bình là 10 tấn/ha. Một giống lúa hữu cơ mới khác có tên là “Jaiva” phù hợp cho vùng đất ngập nước thông thường không nhiễm mặn.
Theo tiến sĩ Vanaja (một trong số các nhà chọn giống lúa lai hữu cơ này) nói rằng các giống lúa hữu cơ lần đầu tiên được đưa ra trong một hội nghị quốc tế về hệ thống nông nghiệp hữu cơ khi một bài báo về nó đã được trình bày. Bà nói rằng bài báo cũng đã được công bố trên Tạp chí quốc tế về canh tác nông nghiệp hữu cơ trong năm 2013.
Giống lúa lai “Jaiva” cũng là kết quả của các chương trình lai giống được tiến hành cách đây 13 năm và đã được thử nghiệm thành công trong các thực nghiệm trên đồng ruộng của nông dân. Năng suất lúa trung bình của giống lúa này là 5,2 tấn/ha và sản lượng rơm đạt 9 tấn/ha trong điều kiện canh tác hoàn toàn hữu cơ.
Được biết, các nghiên cứu trên hai giống mới này kéo dài trong khoảng thời gian 13 năm và đã được tiến hành tại Trạm Nghiên cứu thuộc RARS và tại Trạm Nghiên cứu ở Panniyur.
Có thể bạn quan tâm

Thời tiết đang rét đậm kèm theo gió mùa Đông Bắc nên sức đề kháng của vật nuôi và thủy sản giảm, sinh trưởng phát triển chậm, dễ mắc bệnh, thậm chí có thể chết rét hàng loạt nếu như không có biện pháp phòng, chống kịp thời

Những năm qua, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch trong khai thác hải sản của ngư dân Tiền Giang lên đến 30%. Nguyên nhân chính là do hầm bảo quản không đảm bảo, phương pháp bảo quản còn lạc hậu, khiến chất lượng hải sản giảm sút. Do đó, việc nâng cấp hầm bảo quản, áp dụng các phương pháp bảo quản tiên tiến là vô cùng cần thiết, để giảm tổn thất sau thu hoạch.

“Thời tiết xấu, ngư dân chúng tôi không dám đùa giỡn với tính mạng và tài sản của mình nên phải cho tàu nằm bờ gần một tháng nay”, thuyền trưởng Nguyễn Công (chủ tàu BĐ 95279, trú huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định) đang neo đậu tàu tại Âu thuyền Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng chia sẻ.

Ngày 19-12, Sở KH&CN tổ chức nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu một số bệnh thường gặp trên một số loài cá biển nuôi tại BR-VT, đề xuất giải pháp phòng trị” do Thạc sĩ Bùi Quang Mạnh, Phân viện Nghiên cứu Hải sản phía Nam làm chủ nhiệm đề tài; Hội đồng nghiệm thu đã xếp đề tài loại Khá. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là xác định tác nhân gây bệnh thường gặp trên cá biển nuôi (mú, hồng, chẽm và cá bớp) tại BR-VT và đề xuất giải pháp phòng trị bệnh. Thời gian nghiên cứu từ tháng 11-2012 đến tháng 8-2014.

Những món ăn hấp dẫn từ bào ngư như: bào ngư chấm mù tạt – xì dầu; bào ngư nấu cháo toàn tính (thả cả vỏ vào cháo). Ngoài ra, dược tính của bào ngư sẽ công hiệu hơn khi kết hợp với các vị thuốc bắc trong món canh “bào ngư, hải sâm đen, tần thuốc bắc” – một món chuyên dùng cho người già yếu phục hồi sức khỏe.