Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

30 năm đổi mới - Nhìn từ Nông nghiệp 25 năm ta say sưa, giờ Campuchia qua mặt về gạo

30 năm đổi mới - Nhìn từ Nông nghiệp 25 năm ta say sưa, giờ Campuchia qua mặt về gạo
Ngày đăng: 28/09/2015

Hơn 25 năm xuất khẩu gạo chúng ta say sưa "cạnh tranh" với "gạo cho người nghèo - nước nghèo" để rồi nay Campuchia đã qua mặt chúng ta về gạo thương hiệu.

Nói đến nông nghiệp ai cũng có thể nói ngay rằng đó là tiềm năng, là lợi thế, là nền tảng để tích lũy ban đầu và phát triển kinh tế Việt Nam.

Nhận định thế hoàn toàn đúng vì nước ta ở vào vị trí rất thuận lợi để trồng lúa nước, cây ăn quả, chăn nuôi thủy - súc sản, đánh bắt thủy - hải sản; có rừng nhiệt đới phong phú; có nhiều khoáng sản và dầu - khí; có bờ biển dài bằng chiều dài đất nước và có mặt biển rộng bằng ba lần đất liền.

Ông cha ta, từng một thời tự hào là "rừng vàng biển bạc", đã không sai! Lợi thế kinh tế nông nghiệp, thậm chí còn đi vào tiềm thức, thơ ca..., đã trở thành văn hóa và cả trong triết lý sống của người Việt Nam xưa nay.  

Nhưng rồi, trong mười năm (1975 - 1986), do những kết quả đạt được không như mong đợi mà ta nhận ra được giá trị thật của kinh tế thị trường, kinh tế nông nghiệp, vai trò lịch sử và tinh thần yêu nước của nông dân, tính bền vững của văn hóa nông thôn (làng xã).

Từ chỗ nhận ra ấy, ta lại để nông dân làm nông nghiệp một cách "tự nhiên chủ nghĩa" suốt 30 năm, nên rồi nay ta lại phải trả giá.

Chúng ta đã thua Campuchia về gạo thương hiệu.

"Nổ" như bắp rang, "tàn" như bông súng

Năm 1986 Việt Nam đổi mới. Ngày 7/11/1991 ký Hiệp định Mậu dịch Việt Nam - Trung Quốc. Ngày 11/7/1995 bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ. Ngày 28/7/1995 gia nhập ASEAN. Ngày 7/01/2007 gia nhập WTO...

Nhờ tự đổi mới và nhờ hội nhập, nông nghiệp phát triển nhanh vượt bậc, nhiều mặt hàng như lúa gạo, thủy sản, cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, trà... xuất khẩu có sản lượng lớn, thuộc hạng nhất nhì thế giới. Từ năm 1989 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo (1,370 triệu tấn), đến năm 2012 ta xuất đạt đỉnh cao nhất là 7,736 triệu tấn.

Năm 2011 cá tra xuất khẩu đạt đỉnh cao 1,8 tỷ USD; đời sống một bộ phận lớn nông dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn dần sáng lên, và được nhiều nước và tổ chức quốc tế khen ngợi, và học tập theo.

Thắng lợi này lại một lần nữa làm cho chúng ta "ngủ trên tiềm năng" và "hát hoài bài ca con cá, cây lúa" một cách hồn nhiên! Những ngôn từ gần như mặc định và "nổ" như bắp rang: Đổi mới, hội nhập, thị trường toàn cầu, cạnh tranh, nông nghiệp là nền tảng, xuất khẩu là mũi nhọn kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tái cấu trúc sản xuất v.v... và ...v.v...

Kinh tế Việt Nam là kinh tế xuất khẩu. Kim ngạch xuất luôn cao hơn GDP qua các năm, nhất là từ khi có doanh nghiệp FDI tham gia. Hiện Việt Nam đang đứng đầu các nước ASEAN về xuất hàng vào Mỹ, điều mà nhiều người (không dám) mơ từ những năm sau Đổi mới.

Nhưng từ đỉnh cao những năm 2000, các chỉ tiêu xuất khẩu nông - thủy sản đều tụt dần.

Lý do là: Hơn 25 năm xuất khẩu gạo chúng ta say sưa "cạnh tranh" với "gạo cho người nghèo - nước nghèo" để rồi nay Campuchia đã qua mặt chúng ta về gạo thương hiệu. Việt Nam giờ không có gạo thương hiệu, và gạo cho người nghèo cũng đang ế vì không ai chịu nghèo mãi để ăn gạo nghèo của ta!

Các doanh nghiệp Việt Nam một mình một chợ về nuôi và xuất khẩu cá ba sa, cá tra, nhưng vì tự cạnh tranh nhau (hạ giá bán) mà triệt tiêu sức cạnh tranh của mặt hàng này. Những năm 1990 ta bắt đầu xuất cá ba sa và cá tra, đến năm 2007 đạt giá trị 1 tỷ USD, và tăng dần nhờ mở rộng thị trường đến 130 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Năm 2011 là năm đỉnh cao cả 3 chỉ tiêu: Nuôi 6.000 ha mặt nước, đạt 600.000 tấn cá nguyên liệu và xuất khẩu đạt 1,805 tỷ USD, chiếm 34,2% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản và bằng 2% GDP cả nước. Về giá xuất, từ 4,93 USD/Kg trong những năm 1997-1998 xuống còn 2,8 USD/Kg những năm 2008-2011, và xuống còn 1,8 - 2,5 USD/Kg (năm 2015) mà gần như không còn khách hàng.

Đặc biệt thị trường Trung quốc, đôi khi có tác dụng bổ sung, nhưng thường xuyên là yếu tố gây khủng hoảng thiếu thừa của nông-thủy sản Việt Nam nói chung một cách bất định.

Chỉ kể hai mặt hàng lúa-gạo và cá tra là lợi thế (gần như độc chiếm) của Việt Nam một thời được nâng niu như bông hoa, nhưng cách làm của ta nay làm cho nó "tàn" như bông súng (luộc).

Mặc dù bông súng mọc từ trong đất có nước, nhưng không đủ sắc tươi quá ba ngày. Nói không sợ mếch lòng thì cách làm của chúng ta là chỉ biết có "khôn nhà” mà “dại chợ"!


Có thể bạn quan tâm

Thanh Long Ruột Đỏ Không Đủ Bán Thanh Long Ruột Đỏ Không Đủ Bán

Ông Nguyễn Hữu Tài, giám đốc HTX Sản xuất, tiêu thụ và XK thanh long Dương Xuân cho biết, nhờ thị trường XK thanh long sang Trung Quốc khởi sắc, các DN XK thanh long liên tiếp nhận được những đơn hàng mới, đặc biệt là các đơn hàng thanh long ruột đỏ nên họ không ngừng đẩy giá lên. Ngoài ra, nguyên nhân tăng giá còn do diện tích thanh long ruột đỏ còn hạn chế.

28/11/2014
Khánh Thành Nhà Máy Chế Biến Tôm 5.000 Tấn/năm Khánh Thành Nhà Máy Chế Biến Tôm 5.000 Tấn/năm

NM được xây dựng trên diện tích gần 5 ha (giai đoạn 1), trong đó nhà xưởng 18.600 m2, được lắp đặt thiết bị tiên tiến nhất do Mỹ, Nhật Bản và châu Âu chế tạo, với tổng vốn đầu tư trên 170 tỷ đồng, công suất chế biến 5.000 tấn tôm thành phẩm/năm, tạo việc làm cho 750 lao động, doanh thu XK khoảng 50 - 60 triệu USD.

28/11/2014
Tái Cơ Cấu Là Đây! Tái Cơ Cấu Là Đây!

Chương trình phát triển đàn bò sữa từng gánh nhiều vấp ngã và chỉ trích. Tuy nhiên, sự vực dậy của ngành chăn nuôi bò sữa qua hơn một thập kỷ có mặt tại Việt Nam đang tái khẳng định tinh thần của chính sách này không hề chệch hướng.

28/11/2014
Thị Trường Phân Bón Lối Đi Riêng, Khó Khăn Chung Thị Trường Phân Bón Lối Đi Riêng, Khó Khăn Chung

6 tháng đầu năm, giá phân bón thế giới lẫn trong nước đều có xu hướng giảm. Các đơn vị sản xuất phân đạm trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn như cạnh tranh với hàng nhập khẩu giá rẻ, bù chi phí cho quy định siết chặt tải trọng từ tháng 4/2014…

27/06/2014
Bảo Hiểm Nông Nghiệp Bồi Thường Cho Thủy Sản Chiếm Tới 95% Bảo Hiểm Nông Nghiệp Bồi Thường Cho Thủy Sản Chiếm Tới 95%

Qua 3 năm thực hiện, có 304.017 hộ nông dân/tổ chức tham gia bảo hiểm nông nghiệp, trong đó có 233.361 hộ nghèo (chiếm 76,8%), 45.944 hộ cận nghèo (chiếm 15,1%), 24.711 hộ thường (chiếm 8,1%), 1 tổ chức sản xuất nông nghiệp tham gia bảo hiểm nông nghiệp.

28/06/2014