10 Năm Kiên Trì Dựng Nghiệp Trên Vùng Ngập Lũ Nhờ Con Cá Giống

Chuyển đổi từ trồng lúa độc canh sang ương cá giống, cá kiểng, anh Nguyễn Văn Đực Nhỏ, sinh năm 1964 tại xã Nhị Mỹ (Cai Lậy, Tiền Giang) đã vươn lên ổn định cuộc sống.
Trước đây, anh Nhỏ có 4.000 m2 đất trồng lúa. Do ảnh hưởng lũ lụt nên việc sản xuất bấp bênh. Những năm lũ lớn, lo chạy vạy gặt hái "chạy lũ" vừa vất vả vừa thất thoát, hiệu quả kinh tế kém. Do vậy, anh chủ động tìm giải pháp chuyển đổi từ trồng lúa sang ương ép cá giống trên ruộng. Cách làm của anh là năm 2003, đầu tư đào 2 ao nuôi cá, mỗi ao có diện tích 2.000 m2 ương cá giống trê vàng lai. Kỹ thuật ương ép cá giống được Trung tâm Khuyến nông chuyển giao qua các buổi tập huấn, hội thảo. Ưu điểm của việc ương dưỡng cá trê vàng lai giống là chu kỳ ngắn, quay vòng nhanh, đầu ra thuận lợi và kỹ thuật không phức tạp. Cụ thể, mỗi năm anh quay được 3 vòng cá trê lai, sản lượng 2 tấn cá giống/đợt. Tổng sản lượng 3 đợt cá giống trong năm là 6 tấn, bán với giá bình quân 35.000 đồng/kg, sau khi trừ đi chi phí, gia đình anh còn lãi ròng 110 triệu đồng/năm, cao gấp 4 lần trồng lúa năng suất cao.
Nhận thấy hiệu quả mang lại từ chuyển đổi sản xuất kể trên, năm 2005, anh tiếp tục đào thêm 5 ao nuôi cá mới có tổng diện tích 5.000 m2 đất thừa hưởng của cha mẹ, đưa quỹ đất sản xuất theo mô hình mới lên 9.000 m2 (7 ao). Trước năm 2010, anh ương dưỡng các đối tượng cá trê lai, cá điêu hồng. Sau năm 2010, nhận thấy cá điêu hồng và trê lai hiệu quả ngày càng giảm do đầu ra không thuận lợi, anh Nhỏ mạnh dạn ương dưỡng cá chép Nhật - một loại cá kiểng mà thị trường đang ưa chuộng. Hỏi về giá trị kinh tế, anh Nhỏ cho biết, mỗi năm sau khi trừ chi phí anh còn lãi ròng 200 triệu đồng, gần gấp đôi lợi nhuận từ con cá trê vàng lai trước đây.
10 năm thâm niên ương dưỡng cá giống và 3 năm gắn bó với con cá chép Nhật nuôi làm cảnh, anh Nhỏ đã đúc kết được những bài học kinh nghiệm. Đó là phải có diện tích và qui trình nuôi phù hợp từng đối tượng, chú trọng xử lý môi trường nước sạch, không nhiễm khuẩn, không chất độc hại, không nhiễm thuốc bảo vệ thực vật, nguồn cá bột phải khỏe mạnh và sạch bệnh, mật độ thả vừa phải để giảm rủi ro. Ngoài ra người nuôi phải chú ý không để dư thừa lượng thức ăn trong ao nuôi và theo dõi sát dịch tễ để phòng trị bệnh kịp thời,... Hiện nay, nhiều nơi trong vùng ngập lũ như: Nhị Mỹ, Tân Hội (Cai Lậy); Hậu Mỹ Bắc A, Hậu Mỹ Bắc B (Cái Bè),... đang nhân rộng mô hình ương dưỡng cá giống trên ruộng theo cách anh Nhỏ đã thực hiện đạt hiệu quả cao.
Có thể bạn quan tâm

Tuy vậy, trong cái rét căm của xứ biển, nhiều ngư dân nơi đầu sóng ngọn gió vẫn tiếp tục vượt những con sóng lớn, hòa mình với những cơn mưa, hứng chịu những cơn gió lạnh thổi thẳng vào người, vững vàng tiến ra khơi xa để câu những mẻ cá lớn, để kết thúc những ngày cuối cùng của mùa câu.

Rà soát và đề xuất điều chỉnh quy hoạch vùng nuôi tôm sú, tôm chân trắng phù hợp với từng địa phương và quản lý theo quy hoạch; quản lý chặt chẽ chất lượng các yếu tố đầu vào; xử lý nghiêm các trường hợp sử dựng tôm bố mẹ tự gia hóa cho sản xuất giống

Toàn tỉnh hiện có 1.309 tàu cá, trong đó có 1.234 tàu đăng ký, đăng kiểm (tổng công suất 169.745 CV; tổng số thuyền viên 6.990 người); trong đó tàu cá đánh bắt xa bờ 493 tàu; sản lượng thủy sản khai thác 8.868 tấn (trong đó tôm 1.386 tấn, cá và thủy sản khác 7.482 tấn).

Về xã Tam Quan Bắc (Hoài Nhơn, Bình Định) những ngày giáp Tết Nguyên đán Giáp Ngọ 2014, chúng tôi thật ấn tượng với không khí nhộn nhịp chuẩn bị đón xuân mới của người dân địa phương. Năm nay nhân dân Tam Quan Bắc ăn Tết vui nhờ nghề cá đạt hiệu quả kinh tế cao.

Đã qua mùa nước lớn, sông Tiền vẫn mênh mang, khoáng đạt như sóng lụa dạt dào bao quanh xứ lụa Tân Châu (An Giang). Tưởng vẫn còn nghe đâu đây câu hò :“Bên nàng mặc lãnh Mỹ A, Đưa đò sang chợ, tưởng xa hóa gần...”. Những bè nuôi cá lồng quây quần thành từng cụm rải rác hai bờ sông từ lâu đã thành một phần không thể thiếu để hoàn thiện bức tranh sông nước sống động.