Trang chủ / Cây lương thực / Trồng lúa

Phòng Chống Bệnh Đạo Ôn Gây Hại Cho Lúa

Phòng Chống Bệnh Đạo Ôn Gây Hại Cho Lúa
Ngày đăng: 28/10/2013

Bệnh cháy lá lúa là bệnh gây hại quan trọng nhất trên cây lúa, còn được gọi là bệnh đạo ôn. Khi dịch cháy lá xảy ra trên diện rộng thì sự thiệt hại đến năng suất và sản lượng sẽ thấy rất rõ nét và có ý nghĩa quan trọng đến kinh tế. Tác nhân gây bệnh có thể tấn công mọi giai đoạn của cây lúa; bắt đầu từ giai đoạn mạ hoặc sau khi gieo sạ cho đến trước trổ thì gọi là bệnh cháy lá.

Bệnh có thể gây hại trên cổ lá nên gọi là thối cổ lá, hoặc gây hại trên cổ bông nên được gọi là thối cổ bông làm lép hạt; đôi khi bệnh có thể gây lem vỏ hạt lúa. Bệnh nặng sẽ làm mất trắng năng suất nếu bà con nông dân không phát hiện sớm và phòng trị kịp thời.
1.Triệu chứng bệnh

Đốm bệnh điển hình trên lá có hình thoi, những đốm to thì hai đầu nhọn, tâm màu xám trắng. Trên giống nhiễm, các vết bệnh rất to có thể dài đến 1,5 cm thường liên kết với nhau tạo thành mãng cháy khô trên lá. Trên giống kháng, các vết bệnh thường rất nhỏ, bằng đầu kim màu nâu, rất dễ nhầm lần với vết bệnh đốm nâu mới phát triển.


2. Tác nhân gây bệnhTác nhân gây hại là nấm Pyricularia oryzae Cav. hay P. grisea (Cook )Sacc. Bào tử của nấm rất nhỏ, có thể phát tán và bay cao đến 24 m, thậm chí đến 10.000m để lây lan cho các ruộng lân cận trong khu vực. Nấm phát triển tốt trong điều kiện mát từ 24-280C, ẩm độ cao >80%, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm cao sẽ dễ phát sinh thành dịch. Bào tử nấm nẩy mầm khi gặp lớp nước tự do trên lá hay không khí bão hòa nước; ở 240C bào tử cần 6 giờ, ở 280C mất 8 giờ; vượt quá 280C bào tử phát triển kém. Bào tử xâm nhập vào tế bào lá bằng cách mọc thành đĩa áp, chọc thủng vách tế bào lá lúa. Ngoài ra, bào tử còn tiết ra độc tố pyricularin gây độc cho cây (Ou, 1983). Cây lúa là ký chủ chính, bệnh có thể lưu tồn trên các cây ký chủ phụ mọc quanh ruộng như các loài cỏ lồng vực, đuôi phụng, cỏ chỉ, lúa ma, lúa rày-lúa chét...


3. Các yếu tố giúp phát sinh bệnh- Điều kiện khí hậu thời tiết:
Bệnh này thường phát triển mạnh trong điều kiện khí hậu mát mẽ, ẩm độ cao, mưa nhỏ kéo dài, đêm sương mù nhiều. Đặc biệt trong vụ lúa Đông Xuân tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long vào tháng giêng-tháng hai dương lịch, bệnh này sẽ gây hại trên diện rộng trùng vào lúc lúa đứng cái đến trổ. Bà con trồng lúa tại các vùng thường xuyên bị bệnh cháy lá hằng năm như Tiền Giang, An Giang, Đồng Tháp và Sóc Trăng cần lưu ý có biện pháp phòng ngừa.

- Điều kiện khô hạn:
Điều kiện khô hạn làm cây lúa thiếu nước, quá trình trao đổi chất kém, khả năng hấp thu dinh dưỡng yếu, cây lúa không chống chọi được bệnh. Ở những vùng cao nguyên; điều kiện khô hạn thiếu nước kết hợp với đêm sương mù nhiều, biên độ nhiệt lớn sẽ làm cho bệnh này càng dễ phát sinh mạnh.

- Mật độ gieo trồng:
Mật độ gieo sạ cũng có liên quan đến khả năng phát triển của bệnh cháy lá. Gieo sạ càng dày, tán lá lúa càng nhiều, khả năng che khuất càng lớn, ẩm độ dưới tán lá càng cao, điều kiện vi khí hậu càng thuận lợi cho nấm cháy lá phát triển.

- Phân bón:
Ba lọai phân N-P-K đều có ảnh hưởng rất lớn đến việc phát sinh bệnh nếu bón không cân đối. Thông thường bón dư thừa phân đạm sẽ làm tăng bệnh; dư phân lân không thấy rõ ảnh hưởng lên bệnh. Tuy nhiên, nếu bón thêm phân lân trên vùng đất phèn sẽ hạn chế bệnh cháy lá rất rõ ràng. Phân kali có ảnh hưởng rất phức tạp trên sự phát triển của bệnh cháy lá; bón dư thừa đạm và kali đều làm tăng bệnh; bón đạm vừa phải kết hợp đủ lượng kali thì sẽ giảm bệnh rất rõ. Do đó, trong giai đọan sau trổ nếu ruộng bị nhiễm bệnh cháy lá hoặc thối cổ bông thì không được bón thêm phân bón lá có nitrat kali.

-  Giống lúa:
Thông thường các giống lúa cao sản ngắn ngày khi được phóng thích đưa vào sản xuất đại trà thì đã được các nhà khoa học lai tạo, tuyển chọn để cây lúa có khả năng ít nhiều mang gen có thể kháng hay chống chịu lại bệnh cháy lá. Trồng các giống lúa nhiễm bệnh; khi gặp điều kiện thời tiết thuận lợi cho mầm bệnh, áp lực nguồn bệnh trong khu vực cao thì cây lúa dễ bị sụp mặt cháy rụi nhanh rồi chết. Ngược lại, nếu trồng giống lúa kháng bệnh kết hợp với việc áp dụng IPM thì cây lúa sẽ đứng vững và tiếp tục cho năng suất. Khả năng kháng lại bệnh của giống lúa chỉ có thể tồn tại trong một thời gian nhất định do con nấm gây bệnh cháy lá thường xuyên thay đổi "tính chất gây bệnh" để phù hợp với "con bệnh". Do đó, bà con nên thay đổi giống mới sau một thời gian canh tác. Ngòai ra, "tính chất gây bệnh" của các con nấm cũng thay đổi theo khu vực; thường được các nhà khoa học gọi là "nòi hay dòng nấm địa phương".

 

Tại Sóc Trăng có 4 nòi, Tiền Giang 3 nòi, Vĩnh Long có có 2 nòi (Teraoka và Phạm Văn Kim, 2002). Như vậy bà con nông dân không nên chủ quan, không nên tin tưởng tuyệt đối là giống lúa kháng bệnh cháy lá được mua từ  Sóc Trăng về; khi trồng tại khu vực Tiền Giang sẽ kháng được với bệnh này.

4. Biện pháp phòng trị
Cần áp dụng biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp IPM:- Nên chọn mua giống lúa xác nhận ở nhà cung cấp giống tin tưởng, phải có tính "kháng bệnh" hoặc "kháng vừa" kết hợp với khả năng kháng được rầy nâu. Các giống này phải phù hợp với chân đất tại địa phương cũng như năng suất cao và chất lượng tốt. Tùy theo mục đích để đạt chất lượng gạo ngon, dễ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, bà con có thể chọn một số giống như sau: IR64, VNĐ 95-20, VNĐ 99-3, OMCS 2000, OM 1490, MTL 250, OM 3536, VĐ 20, Jasmine 85...


- Nên chọn hạt giống sạch bệnh, khử lẫn tạp hạt cỏ, xử lý một số loại bệnh trên vỏ hạt bằng cách pha 20cc thuốc CRUISER Plus với 2 lít nước phun lên 100kg hạt giống trong giai đoạn ủ từ  6-12 giờ trước khi đem đi gieo sạ.- Nên dùng biện pháp sạ hàng với lượng giống trung bình: 80-120 kg/ha
- Bón phân cân đối N-P-K, không bón thừa phân đạm: 80-100kg N/ha là đủ. Nên bón phân đạm theo theo nhu cầu cây lúa, áp dụng bảng so màu lá lúa LCC.

- Sau mùa thu hoạch nên cày vùi rơm rạ để trả lại nguồn hữu cơ cho đất đồng thời diệt được mầm bệnh; hạn chế đốt rơm vì biện pháp này chỉ trả lại một số chất khoáng có trong tro; đất dần dần kém mẫu mỡ mau suy kiệt
- Vệ sinh đồng ruộng bằng cách thu gom, tiêu diệt lúa rày-lúa chét, cỏ dại mọc ven bờ là nơi lưu tồn và lây lan mầm bệnh sau này- Giữ mực nước đầy đủ thường xuyên trên mặt ruộng tùy theo nhu cầu nước theo từng giai đọan của cây lúa, tránh để ruộng khô nước khi bệnh cháy lá xảy ra


- Cần thăm đồng thường xuyên, phát hiện kịp thời khi bệnh chớm xuất hiện. Nếu được, nên làm lô ruộng dự tính dự báo, dành riêng khoảng vài mét vuông trên cùng ruộng lúa, sạ dầy hơn bình thường, bón dư phân đạm.- Biện pháp hóa học: Điều chỉnh bét phun cho hạt thuốc thật mịn, đủ lượng nước 400-500 lít/ha với nồng độ theo khuyến cáo. Các lọai thuốc thông dụng hiện nay: Filia 52.5 SE, Beam 75 WP, Flash 75 WP, Fuan 40 EC, Fuji One 40 EC, Rabcide 20 SC hoặc 30 WP, Kian 50 EC, Kitazin 50 EC, Kitatigi 50 ND hoặc 10 H, Vikita 50 ND hoặc 10 H.
- Áp dụng chất kích kháng SAR3-ĐHCT do Bộ Môn Bảo vệ thực vật, Trường Đại học Cần Thơ nghiên cứu thử nghiệm khá hiệu quả với liều phun 10cc chế phẩm/ bình phun 8 lít nước vào 3-4 tuần đầu sau khi sạ.


Có thể bạn quan tâm

Bệnh Lúa Von Bệnh Lúa Von

Bệnh lúa von là loại bệnh do loài nấm Fusarium moniliforme Shel gây nên do nguyên nhân truyền nhiễm hoặc lây nhiễm. Nấm bệnh có thể phát triển ở điều kiện nhiệt độ từ 10-37oC (thích hợp nhất ở điều kiện 24-32oC), ẩm độ cao và ánh sáng yếu. Trên đồng ruộng, bào tử phân sinh có thể tồn tại và sống trong đất từ 4-6 tháng. Nấm bệnh tồn tại chủ yếu dưới dạng sợi và bào tử hữu tính trên tàn dư cây lúa bị bệnh, trong đất và trong phôi hạt giống. Bệnh có thể lây truyền qua không khí, qua tàn dư của cây bị bệnh, nhưng chủ yếu là qua hạt giống.

28/10/2013
Chống Rét Cho Mạ Xuân Chống Rét Cho Mạ Xuân

Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung Ương, liên tiếp trong một vài tuần tới sẽ có nhiều đợt không khí lạnh tràn về kèm theo mưa tạo nên những đợt rét ngọt khu vực Bắc bộ và các tỉnh Bắc Trung bộ từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh. Nhiệt độ ban ngày có thể hạ xuống dưới 15 độ C, về đêm còn xuống dưới 13 độ C, độ ẩm không khí gia tăng lên trên 85%, trời càng rét sâu hơn.

28/10/2013
Kỹ Thuật Trồng Lúa - Quản Lí Nước Kỹ Thuật Trồng Lúa - Quản Lí Nước

Giai đoạn cây con (0-7 NSG): rút cạn nước trước khi sạ và giữ khô mặt ruộng trong vòng 3 ngày sau khi sạ, ngày thứ 4 cho nước láng mặt ruộng 1 ngày sau đó rút cạn để đảm bảo đủ ẩm bề mặt ruộng.

28/10/2013
Phòng Trừ Bệnh Lem Lép Hại Lúa Phòng Trừ Bệnh Lem Lép Hại Lúa

Bệnh lem lép hạt làm biến màu vỏ hạt lúa, có thể gây hại trên vỏ trấu hoặc bệnh trong hạt. Trên vỏ hạt, triệu chứng thay đổi tùy loài vi sinh vật gây hại và tùy mức độ nhiễm bệnh. Triệu chứng bệnh là những vết nhỏ màu nâu đen, hoặc là những mãng nâu bao phủ cả vỏ hạt. Bệnh nặng làm toàn thể vỏ hạt nâu đen, hạt gạo bên trong bị lép hoặc bị biến màu, đôi khi có mùi mốc. Ở đồng bằng sông Cửu Long bệnh rất phổ biến, gây hại đáng kể cho vụ lúa hè thu và thu đông, khi lúa đang trổ mà gặp mưa bảo, sau đó nắng hạn, ruộng bị chua phèn, thiếu nước. Tỉ lệ thiệt hại có thể lên đến 15-20%.

29/10/2013
Sâu Đục Thân 5 Vạch Đầu Nâu Sâu Đục Thân 5 Vạch Đầu Nâu

Ngài cái của sâu đục thân 5 vạch đầu nâu có tính hướng quang mạnh, ngài cái vào đèn nhiều hơn ngài đực. Mỗi ngài cái đẻ từ 3-4 ổ trứng (có 40-82 quả trứng/ổ) và số trứng của một con có thể đẻ là 124-210 quả nhưng chúng không bao giờ đẻ hết số trứng, sau khi chết bao giờ cũng còn từ 10-100 quả trong bụng và nếu nhiệt độ thấp, mưa gió nhiều thì số trứng còn lại trong bụng nhiều. Ngài của loại sâu này thích đẻ trên lúa xanh hơn trên mạ. Một năm sâu đục thân 5 vạch đầu nâu phát sinh 6 lứa. Điều kiện nhiệt độ thích hợp cho loài sâu này phát triển trong tất cả các giai đoạn sinh trưởng là nhiệt độ thấp, chúng có thể phát triển bình thường trong môi trường lạnh.

29/10/2013