Khai Khác Theo Kiểu Hủy Diệt Nguồn Lợi Thủy Sản: Cấm Nhưng Vẫn Làm

Từ khi triển khai thực hiện Chỉ thị số 01/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc nghiêm cấm sử dụng chất nổ, xung điện, chất độc để khai thác thủy sản đến nay đã 15 năm. Chỉ thị này góp phần nâng cao ý thức, hạn chế tình trạng khai thác hủy diệt nguồn lợi thủy sản ở các địa phương. Song, để chấm dứt hoàn toàn thì không phải là chuyện dễ.
Khai thác kiểu hủy diệt
Để thực hiện Chỉ thị số 01, UBND tỉnh Bạc Liêu đã ban hành văn bản chỉ đạo và thành lập Ban chỉ đạo phòng chống sử dụng chất nổ, xung điện, chất độc trong khai thác thủy sản. Nhờ làm tốt công tác vận động, tuyên truyền nên việc khai thác hủy diệt thủy sản đã giảm rõ rệt, tai nạn về điện do sử dụng không an toàn trong khai thác cũng không còn.
Theo thống kê, đến nay ngành chức năng đã xử lý hơn 3.000 trường hợp vi phạm và tịch thu nhiều phương tiện khai thác hủy diệt thủy sản bằng xung điện. Tuy nhiên, việc xử lý trên chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”, và tình trạng này vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở nhiều nơi.
Ở vùng chuyên lúa phía Bắc Quốc lộ 1A (thuộc các huyện Vĩnh Lợi, Hòa Bình, Phước Long, Hồng Dân và Giá Rai), nhiều người dân xem việc xiệc cá không chỉ để cải thiện bữa ăn, mà còn tạo thêm thu nhập. Vào mùa mưa, nhiều người dùng bình điện để xiệc cá trên những cánh đồng và các kênh thủy lợi. Ông N.V.T - một người chuyên xiệc cá ở xã Vĩnh Bình (huyện Vĩnh Lợi) nói: “Người không biết xiệc mới sợ điện giật, chớ tôi xiệc cá cả chục năm nay có bị gì đâu”. Sau đó, ông đưa đôi thanh tre được mắc điện ở hai đầu chạm vào nhau, cứ sau tiếng lách chách là có đến hàng chục con cá lớn và hàng trăm con cá nhỏ khác nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Mỗi đợt xiệc điện, hàng ngàn con cá đã “chết yểu” khi chưa kịp lớn.
Cấm vẫn sử dụng
Việc cấm sử dụng xung điện trong khai thác thủy sản đến nay đã 15 năm, nhưng vẫn chưa thể giải quyết đứt điểm. Vấn nạn này không phải ngành Nông nghiệp và các địa phương không biết, nhưng đôi lúc việc thực hiện chỉ thị trên chỉ áp dụng đối với những người xiệc cá ở các kênh rạch, còn trong thu hoạch thì gần như không thể.
Bằng chứng là trong thu hoạch tôm càng xanh, hiện nay, nông dân vẫn phải sử dụng bình xiệc điện là chính. Ông D.H.N (xã Vĩnh Lộc, huyện Hồng Dân) cho rằng: “Khi thu hoạch tôm càng xanh, cách hiệu quả nhất là dùng xiệc điện để bắt tôm. Vì nếu dùng lưới hay đặt lú để bắt sẽ làm tôm bị gãy càng, bán không được giá. Mặt khác, tôm nằm trong các hốc, trũng thì lưới không thể bắt được, mà phải dùng xiệc điện để tôm nhảy ra”. Có người còn sử dụng cả hóa chất (thuốc trừ sâu) gây sốc làm tôm nhảy lên để thu hoạch.
Thực trạng là thế, nhưng nông dân vẫn sử dụng phương pháp thu hoạch tôm càng xanh bằng cách xiệc điện.
Với những bất cập như hiện nay, ngành quản lý cần có giải pháp bảo vệ nguồn lợi thủy sản và đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm thiết thực hơn.
Có thể bạn quan tâm

Những ngày qua, nắng nóng kéo dài đã làm hàng ngàn ha cây trồng các loại trên địa bàn huyện Kbang (Gia Lai) bị hạn. Hiện một số cây trồng như lúa, bắp, mì… của người dân đang bị khô héo từng ngày vì thiếu nước. Trong thời gian tới nếu nắng nóng vẫn tiếp tục kéo dài thì nguy cơ đại hạn và vụ mùa trắng tay là điều rất khó tránh khỏi.

Tại Giồng Trôm và Châu Thành, diện tích trồng mới bưởi da xanh (BDX) tăng rất nhanh trong 6 tháng đầu năm 2015, đã gần bằng diện tích BDX hiện có của TP. Bến Tre, tỉnh Bến Tre (khoảng 610ha). Ở nhiều nơi khác trong tỉnh, nhiều hộ dân cũng đang trồng mới BDX. Thực trạng này, nhiều người lo lắng, hiện việc tăng diện tích trồng BDX như thế có phá vỡ quy hoạch khi Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp đang được triển khai?

Mới đây, Hội Nông dân huyện Vũng Liêm được UBND tỉnh Vĩnh Long chấp thuận việc sử dụng độc quyền địa danh “Vũng Liêm” để đăng ký nhãn hiệu tập thể “Bưởi da xanh Vũng Liêm”.

Thời điểm này, 60ha diện tích đất trồng nhãn tại vùng chuyên canh xã Hòa Hiệp (huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu) đang bước vào vụ thu hoạch, sản lượng đạt hơn 750 tấn. Theo một số hộ dân ở đây cho biết, năng suất giống nhãn xuồng cơm vàng đạt từ 8 - 9 tấn/ha giảm 1 tấn/ha so với cùng kỳ.

Trong những năm gần đây diện tích ngô vụ đông trên địa bàn huyện Hạ Hòa giảm dần. Nguyên nhân do yêu cầu khắt khe về thời vụ, ngô phải gieo trước ngày 30-9, trong khi đó lao động đi làm ăn xa, hoặc chọn công việc khác thu nhập cao hơn dẫn đến thiếu lao động khi vào mùa vụ. Hơn nữa, thời điểm thu hoạch lúa mùa, gieo trồng ngô đông thường mưa nhiều nên cũng làm chậm tiến độ sản xuất.