Cho Lươn Đẻ Bằng Phương Pháp Nhân Tạo Ở Trung Quốc

Trước đây nguồn lươn giống tự nhiên tương đối nhiều, nhưng do đánh bắt chưa đi đôi với bảo vệ, môi trường thay đổi,... nên gần đây nguồn lươn giống càng cạn kiệt. Bởi vậy, muốn có đủ lươn giống, phải chủ động vừa lấy giống ngoài thiên nhiên vừa cho lươn đẻ nhân tạo.
Lấy trứng, lươn con về ương nuôi
Hàng năm cứ đến mùa lươn đẻ, nhìn kỹ ở mép bờ, bờ ao, bờ mương thấy ở các khe hở có các khối bọt trắng, đối diện là các lỗ hút (thường ở ruộng lúa, nơi con lươn đực gác bảo vệ), để phát hiện lươn con.
Dùng vợt xúc lươn con đem về thả vào các khay men, chậu nhựa, cho ăn bằng lòng đỏ trứng luộc chín và giun đỏ.
Ở miền Nam nước ta vào đầu mùa mưa khi nước sông Cửu Long đổ về, lươn con thường nằm ở các đám cỏ, bèo tây trôi theo dọc dòng sông ở các hồ, đầm, kênh... dùng vợt, rổ, xúc về nuôi.
Vớt trứng về ấp
Từ các khối bọt trắng biểu hiện lỗ đẻ của lươn, chúng ta có thể dùng gáo, vợt có mắt lưới dầy để vớt các ổ trứng cho vào thùng có sẵn nước đưa về bể ấp. Khi nhiệt độ nước 25-30oC, sau một tuần trứng nở thành lươn con, vớt lươn con ra ương ở ao, thức ăn là giun, dòi, ốc băm nhỏ.
Nếu được chăm sóc tốt, nuôi đến cuối năm có thể đạt cỡ 20 g/con.
Nuôi lươn cho đẻ ở bể xây
Tại Trạm Nghiên cứu cá nước ngọt Đình Bảng Tiên Sơn (Hà Bắc), đã nuôi thử lươn cho đẻ.Xây bể (hình 2)
Cần tạo điều kiện môi trường sống của lươn gần với điều kiện sinh sản ở ngoài thiên nhiên.
Xây bể bằng gạch trát xi măng.
Diện tích: 3 m2.
Chiều cao 1,4 m, chiều rộng 1,5 m, dài 2 m.
Đáy bể cho một lớp bùn dầy (D) để lươn tránh nóng, tránh rét.
(A) khoảng 1/3 thể tích của bể cho đất pha sét, dày 60 cm.
(B) lớp đất thịt dầy 20 cm làm bờ trồng vài cây khoai nước, nơi lươn đẻ.
(C) lớp nước bể sâu khoảng 40-50 cm, trên mặt thả ít bèo tây.
Giữa bể có cũi làm bằng tre có thả phên tre kéo lên xuống, nơi cho lươn ăn để dễ kiểm tra.
Thả 20 con lươn cỡ 30-40 cm đang mùa lươn đẻ.
Cho ăn: ngày 2 lần.
Thức ăn bằng động vật như: ốc sên, cá băm nhỏ, dòi. Thức ăn bằng thực vật như: rau muống, bèo tấm ủ chua trộn với cám, bã đậu.
Mỗi lần cho ăn khoảng 100-300 g, nhận thấy lươn ăn ít các thức ăn bằng thực vật.
Mỗi tuần thay nước một lần.
Sau 30 ngày nuôi thấy 4 tổ lươn đẻ (hiện tượng nổi bọt ở gốc cây khoai lang). Sau 1 tháng bắt được 300 lươn con, cỡ 8-12 cm bám ở rễ bèo Nhật Bản.
Sau 2 tháng nuôi lươn thịt với mật độ 30 con/m3 (cỡ 20-30 cm), trọng lượng lươn tăng 50% so với lúc thả.
Có thể bạn quan tâm

Lươn đồng cũng là đối tương có tiềm năng xuất khẩu sang các thị trường như Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản. Hiện nay, lươn đồng đang được nuôi khá phổ biến ở nhiều địa phương của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Có thể nuôi lươn trong bể xây hoặc trong ao đất, tuỳ từng hộ gia đình vận dụng. Diện tích bể xây thường từ 10 - 20m2, loại lớn 50 - 100m2, sâu nhất 1m, thành bể cần láng nhẵn; đáy bể phải nện chặt trên phủ 1 lớp bùn sạch độ 30 cm, hoặc đổ lớp đất pha sét hay đất màu xốp trên 1/2 diện tích đáy bể.

Ông Nguyễn Văn So, ở ấp Vĩnh Thuận, xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành (An Giang) là một trong những người mạnh dạn nuôi lươn trên cạn ở ĐBSCL. Năm 2001, ông So thử dùng bạt nylon loại dày không thoát nước để lót nuôi trên cạn, thay thế cho hồ xây bằng gạch, xi măng (chỉ dùng cây cắm xung quanh để giữ bồn nuôi không bị nghiêng chảy nước ra ngoài).

Đây là mô hình nuôi của một gia đình ở huyện Trường Âm, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Diện tích ruộng nuôi rộng 300m2. Cách nuôi này mang lại hiệu quả kinh tế tổng hợp, dễ áp dụng.

"Bén duyên" với con lươn đã 16-17 năm, nhưng mãi tới nay anh Huỳnh Ninh Hà, ở xã Long Đức, huyện Long Thành mới công bố nghề này: nghề nuôi lươn đẻ! Những câu chuyện về nuôi lươn khá lý thú của người thương binh mang trên mình gần 20 vết thương này đã lôi cuốn được nhều người đến thăm trại nuôi lươn của anh.